Salvatores Babones:
The Meaning of Xi Jinping Thought Người dịch: Huỳnh Hoa
Ý nghĩa của tư tưởng Tập Cận
Bình
Phục hồi dân tộc và Sức mạnh quân
sự
Salvatore Babones
Salvatore Babones là Phó giáo sư Xã hội học và Chính sách Xã hội, Đại học Sydney, Australia – tác giả sách “Thiên hạ kiểu Mỹ: tiền Trung Quốc, sức mạnh Mỹ và điểm tận cùng của Lịch sử”
Phải mất 20 năm thì “học thuyết Đặng Tiểu Bình” – đặt ra “những vấn đề
căn bản liên quan tới công cuộc xây dựng, củng cố và phát triển chủ
nghĩa xã hội ở Trung Quốc” - mới được tôn vinh trong cương lĩnh của đảng
Cộng sản Trung Quốc tại đại hội toàn quốc lần thứ 15, tháng Chín năm
1977. Ông Đặng qua đời tháng Hai năm đó, đã không sống đủ lâu để chứng
kiến ngày được suy tôn.
Đã cai trị Trung Quốc một cách hiệu quả suốt hai thập niên, ông Đặng
không chút hoài nghi về vị trí của ông trong lịch sử. Nhưng trái lại,
ông Mao đã cai trị Trung Quốc gần ba thập kỷ nhưng di sản của ông ta bị
vứt bỏ chỉ trong chưa đầy mười hai tháng. Có lẽ đó là lý do tại sao chủ
tịch đương nhiệm của Trung Quốc, chủ tịch ủy ban quân sự trung ương,
tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình phải suy tính cẩn thận
để loại trừ mọi rủi ro. Chỉ 5 năm sau khi lên nắm quyền cai trị, ông ta
đã sắp xếp để “Tư tưởng Tập Cận Bình” được đưa vào và tôn vinh trong
điều lệ của đảng.
Nghị quyết tóm tắt tư tưởng Tập Cận Bình, dưới tiêu đề rối rắm: “Tư
tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc cho kỷ
nguyên mới” đã được 2.287 đại biểu tham dự đại hội đảng hoàn toàn nhất
trí thông qua. Nghị quyết mở đầu bằng sự tán thành tất cả các chính sách
của ông Tập từ trước đến nay, được tóm lược trong 14 điểm mà ông Tập
trình bày trong diễn văn khai mạc đại hội. Nó kết thúc bằng lời hô hào
những phần tử trung thành của đảng “hãy tư duy theo bức tranh toàn cảnh”
trong khi kiên định đi theo “sự lãnh đạo của ủy ban trung ương với đồng
chí Tập Cận Bình là hạt nhân cốt lõi”. Ở giữa là trái tim của chương
trình này, một tuyên bố dài 131 từ về chương trình điều hành của ông
Tập. Một triết lý cai trị ngắn gọn như vậy đáng được trích dẫn đầy đủ:
“Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ giữ
vững quyền lãnh đạo tuyệt đối đối với Quân giải phóng nhân dân và các
lực lượng vũ trang nhân dân khác; thi hành đầy đủ tư tưởng Tập Cận Bình
về tăng cường sức mạnh quân sự; tăng cường sự phát triển của Quân giải
phóng nhân dân bằng cách nâng cao lòng trung thành chính trị của quân
đội, thông qua cải cách và công nghệ và điều hành quân đội phù hợp với
luật pháp; xây dựng lực lượng nhân dân tuân theo mệnh lệnh của đảng, có
thể chiến đấu và chiến thắng, và duy trì lối hành xử tuyệt vời; bảo đảm
rằng Quân giải phóng nhân dân sẽ hoàn thành sứ mệnh và nhiệm vụ trong
thời đại mới; nuôi dưỡng ý thức mạnh mẽ về cộng đồng dân tộc Trung Quốc;
giữ vững công lý trong khi theo đuổi các lợi ích chung; làm việc để xây
dựng một cộng đồng chia sẻ tương lai cùng nhân loại; tuân theo nguyên
tắc thực hiện tăng trưởng chung thông qua đàm phán và cộng tác; và theo
đuổi Sáng kiến Vành đai và Con đường”.
Trong số 10 mệnh đề kể trên, 5 mệnh đề đầu
tiên tập trung vào quân đội, 4 mệnh đề kế tiếp về xã hội và mệnh đề cuối
cùng vào chính sách đối ngoại, có thể coi đây như là bản rút gọn
những ưu tiên của ông Tập và có thể cũng là của đảng Cộng sản Trung Quốc
nói chung. Thế giới nhìn vào bài diễn văn của ông Tập và hy vọng tìm
thấy những dấu hiệu của chủ nghĩa quốc tế tự do, nhưng tư tưởng Tập Cận
Bình lại là một chương trình không lay chuyển về phục hưng dân tộc được
hậu thuẫn bởi sự gia tăng sức mạnh quân sự.
Đảng thứ nhất, Quân đội thứ nhì
Mặc dù nguyên tắc đầu tiên rõ ràng của tư tưởng Tập Cận Bình là “Đảng
Trước Hết” (Party First),
nhưng ông Tập lại được biết tới nhiều hơn nhờ Giấc mơ Trung Quốc
(Chinese Dream) – giấc mơ xây
dựng “một xã hội phồn vinh vừa phải” giữa một chương trình “phục hồi dân
tộc” của ông. Đặt “Đảng Trước Hết” lên trước “Giấc mơ Trung Quốc” và bạn
sẽ có một phiên bản chuyên chế của một ước mơ thịnh vượng có thể được
gọi là “Nước Mỹ Trên Hết Với Đặc Điểm Trung Quốc”. Ông Tập có thể là
lãnh tụ tối cao của một chế độ độc tài nhưng điều đó không có nghĩa là
ông ta miễn nhiễm với những thủ đoạn chính trị. Và một khi tăng trưởng
của Trung Quốc chậm lại, chủ nghĩa dân tộc là thứ sẵn sàng thay thế cho
thành tích kinh tế trong việc duy trì niềm tin của dân chúng vào sự lãnh
đạo của đảng Cộng sản.
Khi cần phải khơi dậy lòng nhiệt tình dân tộc chủ nghĩa thì từng đồng
chi phí cho quân đội đều sẽ đáng giá. Ông Đặng đã sẵn sàng dùng xe tăng
để áp đặt tầm nhìn của ông về tương lai Trung Quốc, khét tiếng nhất là
vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989. Ông Tập cũng quan tâm
như vậy trong việc giữ cho Giải Phóng Quân Nhân dân (PLA) dưới
quyền kiểm soát của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng ngày nay PLA có
nhiều khả năng sẽ tham chiến trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn hoặc ngoài Biển
Đông hơn là trên các đường phố của thủ đô Bắc Kinh. Với ông Tập, PLA là
công cụ hữu dụng trong việc nuôi dưỡng chủ nghĩa dân túy nặng mùi hiếu
chiến nhiều hơn là để trực tiếp trấn áp đối lập.
Vì thế mặc dù ông Tập rất cẩn thận công khai nhấn mạnh ưu tiên hàng đầu
của quyền lực chính trị so với quân sự, ở Trung Quốc ngày nay đó là
chuyện hiển nhiên. PLA không còn đặt ra mối đe dọa trước mắt đối với
người dân Trung Quốc; các máy bay và hàng không mẫu hạm của nó chủ yếu
dùng để uy hiếp các nước láng giềng hơn là uy hiếp quần chúng dân sự. Và
tất cả các chỉ dấu đều cho thấy, chủ nghĩa quân phiệt mạnh được ủng hộ ở
Trung Quốc ngang với ở Hoa Kỳ, nếu không nói là hơn. Như vậy, yếu tố
quan trọng đầu tiên của tư tưởng Tập Cận Bình là sự chuyển hóa quân đội
PLA từ một lực lượng dự phòng để trấn áp nội bộ thành một lực lượng
chiến đấu có khả năng thực thi sức mạnh của Trung Quốc trên thế giới.
Dân tộc, Vành đai và Con đường
Phần thứ hai của tư tưởng Tập Cận Bình là cộng
đồng, cả nội bộ và bên ngoài. Cộng đồng nội bộ là cộng đồng của
“dân tộc Trung Hoa”, là một quan niệm tương đối mới mẻ trong chính trị
Trung Quốc. Nước Trung Hoa Dân quốc cũ, trước khi chính phủ của nó phải
lưu vong ra đảo Đài Loan, thường cổ xúy một học thuyết về cái gọi là năm
dân tộc của Trung Quốc: Hán (Trung Hoa), Mãn, Mông, Hồi và (Tây) Tạng.
Từ khi thành lập năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức
công nhận một quần thể các dân tộc thiểu số, nói theo sự tuyên truyền
chính thức của Liên xô về việc xây dựng quốc gia như là một liên minh
nhiều dân tộc. Tư tưởng Tập Cận Bình đã bỏ tất cả những thứ đó lại đằng
sau.
Trong nước Trung Quốc của Tập chỉ có một dân tộc – dân tộc Trung Hoa.
Được xây dựng vững chắc chung quanh bản sắc của người Hán chiếm đa số,
chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc đang được củng cố (với sự hỗ trợ mạnh mẽ
của chính quyền) chung quanh một ngôn ngữ tiêu chuẩn là tiếng Quan thoại
(Mandarin) và một niềm an ủi
tinh thần là Khổng giáo phiên bản thế kỷ 21. Bên ngoài Trung Quốc, hai
sáng kiến này được kết hợp ở các viện Khổng tử gây nhiều tranh cãi – các
trung tâm ngôn ngữ và văn hóa do chính phủ Trung Quốc tài trợ đã được
lồng ghép vào khoảng 500 trường đại học khắp thế giới. Những gì mà viện
Khổng tử cố gắng đạt được ở nước ngoài thì truyền thông do nhà nước kiểm
soát và giáo trình học tập đang quảng bá không ngừng nghỉ ở trong nước:
hình ảnh Trung Quốc như là một quốc gia-dân tộc thống nhất, không chỉ
bắt buộc sự tuân phục mà còn xứng đáng với lòng trung thành của các công
dân.
Trong khi triều đại quân chủ cuối cùng và ngay cả nước Trung Hoa cộng
hòa thuở ban đầu đều tự nhìn mình như là một cộng đồng các dân tộc thì
nước Trung Quốc của thế kỷ hiện đại lại quay về với ý tưởng cổ xưa xem
Trung Quốc như là nhà nước trung tâm của cả thế giới Âu-Á, của “thiên
hạ” (tianxia). Bản thân từ
Trung Quốc trong tiếng Hoa,
Zhongguo, có nghĩa đen là nhà nước trung tâm (hoặc thi vị hơn, vương
quốc ở chính giữa), và trước khi Trung Quốc hội nhập vào thế giới-kinh
tế mà châu Âu là trung tâm – thì Trung Quốc quả là nhà nước trung tâm
của chính nó, là một thế giới khá riêng biệt. Sáng kiến ngoại giao mang
dấu ấn riêng của Tập Cận Bình, chương trình
Nhất lộ, Nhất đới (một vành
đai, một con đường) nhằm phát triển cơ sở hạ tầng Á-Âu, rõ ràng được
thiết kế để đưa Trung Quốc quay trở lại vị trí trung tâm chính trị và
kinh tế của cả châu lục.
Năm 2022 – kỷ niệm bách niên
Năm 2022 Trung Quốc sẽ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập đảng Cộng sản. Lễ
kỷ niệm cột mốc 100 năm này dự kiến sẽ được chào mừng cùng với việc tổ
chức đại hội toàn quốc lần thứ 20 của đảng, và ông Tập sẽ đặt ra nghị
trình. Không ai biết được liệu ông Tập có kéo dài sự cai trị của mình ra
sau năm 2022 hay không và ở mức độ nào, nhưng hầu như chắc chắn rằng ông
sẽ dùng sự kiện 100 năm đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2022 như một cơ hội
để in dấu sự hiểu biết của ông về bản sắc dân tộc Trung Quốc vào trái
tim của đồng bào ông, vào trí óc của cả thế giới.
Thoạt nhìn qua, tư tưởng Tập Cận Bình có vẻ
giống như một khẩu hiệu vô nghĩa nhưng xem xét sâu hơn nó bộc lộ một
chương trình thống nhất, mà nói theo ngôn ngữ của ông Tập, về “sự phục
hồi dân tộc”. Người Pháp có thể nhìn về Cách mạng Pháp, người Đức nhìn
về sự kiện Mùa xuân của các dân tộc năm 1848, người Nhật về cuộc Canh
tân Minh Trị và người Ý nhìn về Risorgimento[*]
để hiểu biết rõ hơn về dự án của ông Tập. Tư tưởng Tập Cận Bình không gì
khác hơn là một chương trình tái sinh một nhà nước-dân tộc Trung Hoa
thời hậu cộng sản (dù không phải là thời hậu độc đảng).
Tên gọi đầy đủ của chương trình này, “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa
xã hội với đặc điểm Trung Quốc cho một kỷ nguyên mới” tiết lộ điểm then
chốt. Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc đã từng là trụ cột trong tuyên
truyền của đảng Cộng sản kể từ thời ông Đặng. Thời đại mới, thời đại ông
Tập, vẫn đang được hình thành. Công cuộc chuyển hóa kép cần thiết để báo
hiệu cho nó – chuyển hóa quân đội PLA và chuyển hóa cả dân tộc Trung Hoa
– vẫn đang được thực thi. Hãy tìm cực điểm trong dự án chính trị của ông
Tập, sự sinh thành một nhà nước-dân tộc Trung Quốc mới, ở lễ kỷ niệm 100
năm đảng Cộng sản vào năm 2022. Cho đến lúc đó, chúng ta chỉ có thể ước
đoán tương lai sẽ như thế nào. Có lẽ chính ông Tập cũng không biết,
nhưng chắc chắn ông ta sẽ có câu trả lời sau 5 năm nữa.
[*] Rorgimento, tiếng Ý có nghĩa là hồi sinh, phục hồi – để chỉ một phong trào sáp nhập các nhà nước riêng rẽ ở bán đảo Italia thành một quốc gia thống nhất là Vương quốc Italia vào thế kỷ 19. Quá trình này bắt đầu năm 1815 với Công ước Vienna và hoàn thành năm 1871 khi Rome trở thành thủ đô của Vương quốc Italia (theo Wiki) |