LỜI NGỎ
PHẬT
GIÁO HÒA HẢO
Trần Văn Chánh
Tôi không phải tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (PGHH), và cũng chưa tín ngưỡng
bất kỳ một tôn giáo nào khác, nhưng là người, do kinh nghiệm thực tế,
sớm nhận ra tác dụng tích cực về mặt văn hóa - giáo dục - đạo đức của
tôn giáo đối với đời sống các xã hội. Nhiều bản điều tra thống kê xã hội
học từ lâu đã chứng minh rất rõ điều này, còn thực tế trong đời sống
thường nhật cũng cho thấy, ngoại trừ trường hợp vi phạm pháp luật dưới
hình thức lạm dụng tôn giáo để ru ngủ hoặc đè ép dân chúng, hễ nơi nào
được đặt dưới sự kiểm soát lành mạnh của một loại tín ngưỡng thì đời
sống văn hóa - đạo đức của nhân dân nơi đó hầu như luôn tốt đẹp hơn so
với những nơi khác không có các vị linh mục, nhà sư… hoạt động, dạy dỗ
tín đồ của họ, nhờ đó các tệ nạn như đánh lộn, chửi thề, trộm cắp, giết
người, thưa kiện, lường gạt, đâm chém nhau vì tranh giành tài sản…
thường tương đối ít xảy ra hơn.
Nhìn chung, tôn giáo là một nhu cầu quan trọng của con người[2].
Nói như hai nhà sử học nổi tiếng thế giới Will & Ariel Durant: “Dù có óc
hoài nghi đi nữa thì sử gia cũng phải tập kính ngưỡng tôn giáo, vì dưới
gầm trời nào, ở thời đại nào, sử gia cũng thấy nó làm tròn nhiệm vụ của
nó… Nó giúp đỡ cha mẹ và các nhà giáo dục dạy dỗ thanh niên vào khuôn
vào phép; nó làm cho những cuộc đời hèn mọn nhất có một ý nghĩa, một
phẩm cách; nó làm cho những giao ước của loài người có tính cách thiêng
liêng như giao ước với Thượng Đế, nhờ vậy mà xã hội được ổn định”[3].
Trong bối cảnh cụ thể xã hội Việt Nam, tôi cũng rất chia sẻ ý tưởng này
của tác giả Phạm Bích Hợp[4],
khi khẳng định: “Tôn giáo tính là một bản tính của con người”, “Tôn giáo
tính (religiosité) là một bản tính vốn có trong cấu thành tâm lý của mỗi
cá nhân, giống như cảm tính, lý tính hoặc những cảm tính bẩm sinh khác.
Đó là một bản năng nội tại của con người. Tôn giáo tính là một phần của
nhân tính, cũng giống như tình yêu, tình thương là những cái cần có cho
sự cân bằng nội tại cả về sinh lý học và tâm lý học của mỗi người”, “Và
như chúng ta thấy, cùng với một đất nước đa tôn giáo, người Việt Nam
cũng là một dân tộc có tôn giáo tính đậm nét”[5].
Tôn giáo quan trọng là như vậy, nhưng riêng đối với PGHH, một tôn giáo
bản địa Nam Bộ được chính thức khai sinh tại miền Tây Nam Bộ từ 4 tháng
7 năm 1939 do Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1920 - 1947) khởi xướng, mà có lúc
vào thời điểm trước năm 1975 số tín đồ gia nhập lên đến khoảng 2 triệu
người[6],
thì bản thân tôi lại có lúc lơ là, không chịu tìm hiểu, chủ yếu có lẽ vì
trong thâm tâm cho rằng nền tôn giáo bản địa này quá bình dân và không
có gì cao siêu hấp dẫn so với đạo Phật truyền thống với kho tàng tam
tạng giáo điển hết sức mênh mông đồ sộ.
Mãi đến một hai năm gần đây, trong một lần xuống thăm chơi một bạn trẻ
là tín đồ PGHH ở Chợ Mới (An Giang), thấy nơi đây có nếp sống trật tự
hiền hòa, không có nạn trộm chó (vốn rất phổ biến hiện nay ở nhiều nơi
từ Bắc chí Nam), ra ngoài ăn uống thấy chỗ nào cũng bán giá rẻ mà các
chủ quán đều rất vui vẻ lịch sự tiếp đãi…, thì tôi mới bắt đầu chú ý hỏi
han thêm. Lục trong tủ sách của người bạn trẻ, bắt gặp vài quyển sách
cũ, thế là đọc ngấu nghiến một quyển, lựa trong số những quyển nào mỏng
nhất, vì thời gian ngắn ở lại chơi không cho phép đi sâu tìm hiểu.
Điểm đầu tiên tôi chợt nhận ra là thấy được ngay đây một thứ đạo Phật từ
mênh mông cao siêu khó hiểu khó thực hành đã được đơn giản hóa cho thích
nghi với trình độ tiếp thu và tu tập của con người nói chung và của tầng
lớp nông dân Nam Bộ nói riêng. Về việc thờ phượng cúng kiếng, cũng hết
sức đơn giản, chủ trương không chấp vào các hình tướng vật chất nên đã
đề phòng trước được khả năng tha hóa đạo đức vì lợi dụng tôn giáo để
trục lợi cá nhân. Nhưng điểm “cận nhân tình” nhất, nhờ đó người ta có
thể tu học được đàng hoàng hơn, không phạm vào các giới cấm liên quan
sắc dục, là người tín đồ Hòa Hảo chủ yếu “học Phật tu Nhân” theo phương
thức sống đạo tại gia, vẫn có vợ con và duy trì hoạt động lao động bình
thường như mọi con người bình thường bằng xương bằng thịt, kể cả bổn
phận của người công dân đối với đất nước, dân tộc… PGHH vì vậy cũng
chính là một loại đạo Phật cải cách mạnh mẽ có tính cách mạng nhằm hiện
thực hóa đạo Phật một cách ít khó khăn trầy trật hơn chứ không phải thứ
gì khác. Trong điều kiện một tôn giáo nào khác tồn tại ở Việt Nam từ lâu
và hiện nay đang xuất hiện khá nhiều những biểu hiện tiêu cực, và tình
trạng lạm dụng theo kiểu “mượn đạo tạo đời”, gây bất mãn trong dân[7],
tôi cho rằng việc cải cách/ lành mạnh hóa một tôn giáo như vậy mà nhiều
vị tiền bối tâm huyết đã thấy và đã nỗ lực làm, trước hết nên tham khảo
theo hướng cải cách “cận nhân tình” của PGHH. Đây chỉ nói là cái hướng
nên xem xét tham khảo thế thôi, chứ hoàn toàn không có ý so sánh giữa
tôn giáo này với tôn giáo khác.
Học giả - nhà văn Trung Quốc Lâm Ngữ Đường (1895-1976) đã từng phát biểu
thẳng thắn: “Cái gì bất cận nhân tình đều là xấu cả. Một tôn giáo bất
cận nhân tình không phải là một tôn giáo, một chính trị bất cận nhân
tình là một chính trị điên khùng, một nghệ thuật bất cận nhân tình là
một nghệ thuật dở… Lý tưởng cao nhất mà ta có thể hướng tới là thành một
người ‘cận nhân tình’, khả ái, biết phải trái, chứ không phải là thành
một người nộm để phô trương các đạo đức”[8].
Phần tôi, sau khi tìm hiểu muộn màng về PGHH, thì lại thấy thiếu sách
đọc. Do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, nếu tính lùi thời gian từ giữa
năm 1975 trở đi đến nay đã 42 năm, ngoài cuốn Sấm giảng chứa đựng giáo
lý căn bản của PGHH, được Giáo hội PGHH Việt Nam cho ấn hành phổ biến
rộng rãi trong giới tín đồ (sau giai đoạn PGHH được công nhận tư cách
pháp nhân năm 1999), thì quanh đi quẩn lại trong nước chỉ thấy loe hoe
vài ba cuốn sách chuyên đề liên quan PGHH, mà gần đây nhất là việc cho
tái bản cuốn Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Hầu[9].
Người quan tâm muốn tìm hiểu sâu hơn về PGHH vì thế phải tìm đọc thêm
một số xuất bản phẩm tiếng Việt được in từ nước ngoài. Trong quá trình
tìm kiếm thêm tài liệu/ sách vở để đọc, tôi hơi bất ngờ thấy có khá
nhiều bậc thức giả tên tuổi không phải tín đồ đạo Hòa Hảo (như Kim Định,
Lê Văn Siêu, Phạm Công Thiện, Nguyễn Bá Thế, Trần Ngọc Ninh, Phạm Cao
Dương, Lâm Võ Hoàng, Phạm Bích Hợp, Huệ Khải Lê Anh Dũng, Đoàn Nô…)
nhưng đã từng quan tâm viết lách nói lên tính ưu việt độc đáo của mối
đạo địa phương quan trọng này, vì đó là một tôn giáo cải cách có vẻ
thích nghi nhất với tập tính và truyền thống dân tộc. Từ đó nảy ra ý
định tập hợp một số bài viết, phần lớn của những tác giả không phải tín
đồ Hòa Hảo, trong cũng như ngoài nước, để cung cấp một cái nhìn tổng
quát tương đối toàn diện về PGHH cho mọi người bất luận đã có tín ngưỡng
hay không, xuất phát từ nhu cầu nhận thức khách quan một hiện tượng tôn
giáo đặc biệt độc đáo của Việt Nam nhiều hơn là từ lý do tín ngưỡng của
người theo đạo, vốn dĩ vì tình cảm tôn giáo riêng mà thường hay có lối
trình bày sự việc liên quan tôn giáo mình một cách chủ quan hoặc đôi khi
phiến diện một chiều.
Duyên khởi, mục đích của việc cho xuất bản cuốn sách này, chẳng qua cũng
chỉ rất đơn giản như vậy mà thôi.
Tất cả
bài viết tập hợp trong cuốn sách nhiều tác giả này đều đã được đăng trên
các sách báo trong nước và hải ngoại[10],
với xuất xứ ghi rõ từ những sách báo nào. Do tập hợp từ nhiều nguồn khác
nhau, giữa các bài viết, quy cách trình bày văn bản và chữ viết đôi khi
cũng có tình trạng thiếu nhất quán, mà chúng tôi khó lòng điều chỉnh hết
được, nên đành tạm chấp nhận một số chỗ chưa hoàn toàn hợp lý. Ngoài ra,
văn phong và cách thể hiện ý tưởng giữa các bài viết cũng không đồng
nhất. Vài bài ca tụng PGHH hơi quá, điều này mặc dù dễ hiểu và rất đáng
thông cảm nhưng cũng không phải là chủ trương của chúng tôi, trái lại,
chủ trương của chúng tôi vẫn là muốn nêu vấn đề PGHH và Giáo chủ Huỳnh
Phú Sổ một cách trung thực, khách quan.
Trong một số bài viết, khi trích dẫn Sấm giảng của Huỳnh Giáo chủ, các
tác giả thường giữ nguyên lối viết cũ dùng dấu gạch nối (-) ở những từ
kép, với ý tôn trọng nguyên văn từng câu chữ, thì chúng tôi cũng xin tạm
giữ nguyên, nhưng theo thiển ý, trong tương lai nếu có in lại Sấm giảng,
Giáo hội PGHH cũng nên hiện đại hóa quy cách chữ viết cho phù hợp theo
lối hiện đại, tức bỏ đi những dấu gạch nối đó trong hầu hết những trường
hợp không cần thiết.
Chúng tôi đã liên lạc các tác giả để xin phép được sử dụng bài viết, tuy
nhiên đối với vài tác giả khác đang sống ở hải ngoại (hoặc có người đã
qua đời), vì việc liên lạc khó khăn, chúng tôi không tiện xin phép
trước, và đôi khi vì lý do cần tránh bớt một số điều nhạy cảm có thể gây
tranh luận không cần thiết, trong quá trình biên tập, chúng tôi đã mạn
phép tự tiện bỏ bớt một vài câu chữ hoặc đoạn văn ngắn trong bài viết[11],
thì xin quý vị hãy vì sự lợi lạc của nhân sinh và hoài bão chung mong
muốn đóng góp cho văn hóa nước nhà mà vui lòng thể tất cho.
Việc biên soạn sách này hoàn toàn không có mục tiêu kinh doanh, bằng
cách giao cho Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh in ấn - phát
hành, chúng tôi chỉ nhận hiện vật sách thay cho tiền bản quyền để dành
biếu cho các tác giả (hay người đại diện gia đình tác giả) hoặc thân
hữu, và cho một số người quan tâm vấn đề mà chúng tôi có cơ hội được
quen biết, trong cũng như ngoài PGHH.
Sau một thời gian khá dài xảy ra không ít sự ngộ nhận vì những lý do
ngoắt ngoéo phức tạp của lịch sử dân tộc giai đoạn trước và sau năm
1945, đến nay, tất cả các tài liệu do tư nhân hoặc chính quyền phổ biến
cơ bản đều thừa nhận Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là một bậc chân tu yêu nước,
lấy tư tưởng “hòa hảo”, bao dung làm nền tảng cho mọi hoạt động tôn giáo
và chính trị của ông, trong điều kiện đất nước nô lệ không thể không bị
phân hóa thành nhiều phái có chủ trương và sự lựa chọn đường hướng đấu
tranh khác nhau vì mục tiêu chung độc lập dân tộc. Đây lại là một vấn đề
hết sức tế nhị phức tạp, đòi hỏi sự nghiên cứu tường tận của các nhà sử
học để có thể trình bày sự kiện và đưa ra những nhận định thật sự đúng
đắn khách quan trong tương lai về một giai đoạn lịch sử đau thương đặc
thù của dân tộc. Còn trong hiện tại, trong khi biên soạn quyển sách này,
chúng tôi tự nhận thấy mình chưa có khả năng cũng như điều kiện đầy đủ
về tư liệu để làm được việc đó như ý muốn.
1.5.2017
[1]
Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6.2017.
[2].
Xem Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tôn
giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
[3].
Will & Ariel Durant (Nguyễn Hiến Lê
dịch), Bài học của lịch sử, NXB. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006,
tr. 60.
[4].
Xem tên một số sách nghiên cứu về các
tôn giáo địa phương (Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Hòa Hảo) của tác
giả này trong Phụ lục IV: Thư mục Phật giáo Hòa Hảo, ở cuối
sách.
[5].
Xem Phạm Bích Hợp, Người
[6].
Xem Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo (Ban
phổ thông giáo lý trung ương ấn hành), Những nét sơ lược về đạo
Phật giáo Hòa Hảo, khoảng 1966, tr. 11.
[7].
Có thể xem tham khảo: Trần Văn Chánh,
“Tản mạn khả năng tự suy thoái của Phật giáo”, đã đăng một phần
chủ yếu trên tạp chí Văn hóa Phật giáo và đăng toàn bộ trên hầu
hết các trang mạng Phật giáo trong năm 2011.
[8].
Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch),
Sống đẹp, NXB. Văn Hóa, 1993, tr. 167.
[9].
NXB. Tôn Giáo, Quý I/ 2017.
[10].
Trừ 2 bài do chúng tôi biên soạn mới:
(1) “Huỳnh Phú Sổ và PGHH qua góc nhìn của một số nhân sĩ trí
thức” của Trần Văn Chánh; và (2) Thư mục PGHH (Phụ lục IV) của
Bùi Thanh Hải - Trần Văn Lợi. |