Người Trí Thức
Chân Chính Nguyễn Hiến Lê
Trần Khuyết Nghi
Nhà văn quá cố Nguyễn Hiến Lê, trong con mắt của những người đồng thời
và của lớp hậu sinh thường được nhìn nhận như là một học giả có sự
nghiệp trứ tác đáng nể về đủ mọi phương diện khảo cứu, biên soạn, dịch
thuật với khoảng 120 tác phẩm để đời mà hầu như tác phẩm nào cũng có một
giá trị riêng biệt đáng được nhắc nhở. So với các lớp tiền phong, không
phân biệt trong hay ngoài nước, ông có nhiều mặt vượt trội cả về số
lượng lẫn tính đa dạng. Mà về văn phong giản dị, phương pháp làm việc
khoa học, với cách trình bày bất cứ vấn đề nào cũng mạch lạc, rõ ràng và
dễ hiểu dễ đi vào lòng người thì ai cũng phải chịu. Ngoài ra người ta
còn trọng ông hơn nữa ở phần nhân cách, lối sống, tấm gương làm việc
kiên trì nhẫn nại, cùng nhiều đức tính đáng quý khác, chứ không chỉ ở
những kết quả của sự nghiệp văn chương đồ sộ mà ông đã cống hiến được
cho đời. Tôi có gặp ông một lần nhưng ngắn ngủi và không có kỷ niệm gì
đáng để ghi lại. Chỉ sau khi ông qua đời chừng vài năm, gặp một số người
khác hiểu biết nhiều về ông hơn, tôi thấy dường như ai cũng nhắc đến
công đức ông với lòng kính trọng một cách gần như tuyệt đối. Ngay như cụ
Vương Hồng Sển khí phách Nam bộ ngang tàng vậy, lớn hơn ông những 8 tuổi
mà cũng thừa nhận trong đời cụ chỉ quỳ lạy trước linh cữu có hai người,
một là cha cụ, người thứ hai là "anh Lê"..., như lời cụ tự kể trong một
bài báo viết ở đâu đó.
Nhìn chung, ông Nguyễn Hiến Lê có công rất lớn trong việc truyền bá
những tinh hoa tư tưởng đông tây, đặc biệt là những tri thức có tính
cách thực hành và lối sống văn hóa mới cho những người cùng thời, nhất
là cho thế hệ trẻ. Nhiều người nhận rằng nhờ có ông chỉ vẽ mà họ đỡ lúng
túng rất nhiều khi bước chân vào đời, nắm vững phương pháp làm việc, học
tập và xây dựng được một quan niệm tương đối ổn định về cuộc sống.
Nhận xét của người đời về nhà văn Nguyễn Hiến Lê như vậy hẳn phải khách
quan, vì hầu như không thấy có ý kiến phản biện, của cả trong
Tuy nhiên, dường như người ta thường chỉ chú ý đến Nguyễn Hiến Lê
như một học giả, một nhân vật có nhiều thành tích xuất sắc về phương
diện học thuật, một con người của sách vở, mà ít ai nhấn mạnh đầy đủ đến
khía cạnh ông là một trí thức đầy trách nhiệm thể hiện ở thái độ yêu
nước thương dân chân thành, lúc nào cũng bận bịu việc đời, trăn trở với
những nỗi thăng trầm của dân tộc cũng như về những vấn nạn của thế giới
mà số phận của dân tộc không thể tách rời. Ngay như một người tri kỷ của
ông là Châu Hải Kỳ trong quyển sách viết riêng về ông (quyển Nguyễn
Hiến Lê, cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn Học, 1993) cũng chỉ tập trung
giới thiệu, phân tích phần sự nghiệp văn chương là chính.
Tất nhiên, chỉ với phần đóng góp lớn cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ
không thôi, như mọi người nhận thấy, Nguyễn Hiến Lê cũng đã thể hiện vai
trò, trách nhiệm của người trí thức trong xã hội. Ðiều rõ nét hơn là
nhịp đập trái tim của ông luôn gắn liền với thời cuộc và những nỗi
âu lo của cuộc sống, thể hiện bàng bạc kiên nhẫn và xuyên suốt trên từng
trang viết của cả cuộc đời mình. Ông tuy có lặn hụp trong sách vở nhưng
không đắm đuối để cho chữ nghĩa làm "tha hóa" đến quên mất những trách
nhiệm hiện thực đối với cuộc sống đầy gian truân bấp bênh trục trặc của
đồng bào đồng loại. Bởi vậy hình như ông không thích nói suông hoặc
tranh luận những điều lặt vặt để phô trương vẻ hơn kém trong trận bút
trường văn, mà chỉ viết những gì cảm thấy cần thiết cho sự tiến bộ xã
hội. Văn ông nói chung bình dị ít gọt giũa nhưng bút lực thường trở nên
mạnh mẽ hoạt bát, giọng thiết tha hùng hồn mỗi khi đề cập đến tổ tiên
ông bà, đến một phong trào yêu nước, thậm chí khi biểu lộ xúc cảm bình
thường trước một cảnh đẹp bình dị của quê hương, đất nước, một địa danh,
một con người, một kỷ niệm...Quyển Ðông Kinh nghĩa thục (1956)
của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết, có thể coi là một tập ký sự
lịch sử có tác dụng giáo dục tiêu biểu, nhờ được viết với một tình cảm
tôn kính cổ nhân và yêu nước nồng nàn mà truyền được nhiệt huyết của thế
hệ sĩ phu lớp trước cho thế hệ trẻ. Loại sách biên khảo triết lý của ông
cũng thường có chủ ý nhất định, hướng vào việc giới thiệu những đề tài
có giá trị ứng dụng vào thực tiễn xã hội, như cuốn Nho giáo một triết
lý chính trị (1958) chẳng hạn, mà ta có thể xem như một bản lược đồ
về phương pháp, kinh nghiệm trị dân theo quan niệm Khổng học. Phần
lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những bản dịch tiểu thuyết của ông
đều có giá trị lớn về mặt giáo dục, đề cao tình yêu quê hương và chủ
nghĩa nhân bản (có thể kể: Chiến tranh và hòa bình của Léon
Tolstoi, Kiếp người của Somerset Maugham, Khóc lên đi ôi quê
hương yêu dấu của Alan Paton, Quê hương tan raõ của Chinua
Achibe, Chiếc cầu trên sông Drina của Ivo Andritch, Mùa hè
vắng bóng chim của Han Suyin...).
Dù chưa thiết lập kỹ càng một định nghĩa vốn rất không dễ về người trí
thức, chúng ta cũng khó hình dung một người trí thức mà lại chỉ biết có
mình trong chuyện thăng tiến tạo lập sự nghiệp để chiếm lĩnh những vị
trí đặc quyền trong xã hội về tiền tài danh vọng mà không quan thiết gì
đến những khó khăn trục trặc của đồng loại, trước nhất là của cộng đồng
những người gần gũi mình nhất, đã nuôi dưỡng đùm bọc mình cho tới khi
khôn lớn. Xét riêng về phương diện thăng tiến trong nghề nghiệp thì nhà
văn Nguyễn Hiến Lê cũng là một người thành đạt, tuy nhiên ông không
chuộng hư danh phù phiếm hoặc an nhiên hưởng thụ thành quả, đánh
mất mình, trái lại lúc nào cũng sống giản dị lo toan, tìm cách gióng lên
tiếng nói trung thực tự đáy lòng để mong vớt vát được phần nào cho tình
trạng xã hội đã khá suy bại đương thời. Có lẽ vì vậy nên mặc dù rất
không ưa chính trị và không tham chính, ông vẫn phải nói hoài viết hoài
dần dần lên đến trên 300 bài báo có tính thời sự liên quan đủ các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội...; tựu trung mặt
nào ông viết trong loại nầy cũng không khỏi có dính dáng ít nhiều đến
chính trị, bởi một lẽ dễ hiểu là mọi mặt trì trệ trong đời sống xã hội
nếu có ở mọi thời đều phải liên quan đến trách nhiệm của kẻ cầm quyền.
Nhưng điểm đặc biệt là tất cả những bài ông viết đều không mang dấu ấn
của động cơ cá nhân hay có tính đại diện cho bất kỳ phe phái nào, cũng
không chỉ trích cá nhân nào trong tầng lớp cầm quyền đương thời, mà chỉ
dựa trên lương tri và kiến thức với tâm tình độ lượng thiết tha để
phân tích vấn đề một cách khách quan tinh tường nhằm góp phần xây dựng
những chính sách vĩ mô dài hạn mang lại lợi ích cho quần chúng.
Khi viết thể loại chính luận, do không có tư tâm tư kỷ nên lời ông
thường trung thực mạnh mẽ, đôi khi gay gắt, phẫn nộ, đả thẳng vào các
thói tệ hại của nhà cầm quyền, nên bài viết khi đăng ra thường bị đục bỏ
nhiều chữ nhiều đoạn do chế độ kiểm duyệt báo chí của hệ thống thông tin
lúc bấy giờ. Mặc dù đôi khi không thể không gay gắt trong cách bày tỏ
nhưng thái độ của ông căn bản vẫn luôn ôn hòa, nhũn nhặn và xây dựng một
cách thấu tình đạt lý chứ không bao giờ nói càn theo kiểu chỉ trích vô
điều kiện thiếu trách nhiệm để thỏa mãn tự ngã. Về điểm nầy có lần ông
đã minh thị trong một bài viết:"...Tôi muốn bàn qua về thái độ chúng
ta đối với chính quyền. Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là
được độc lập, và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho
quốc dân. Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài
chính quyền, đứng ở cương vị đối lập với chính quyền. Ðối lập không nhất
định là chỉ trích, lại càng không có nghĩa là đả đảo. Ðối lập là một
cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ
thuộc chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền và chính quyền
mới chú ý tới lời nói của ta... Chúng ta còn phải tiếp tục tranh đấu cho
được tự do ngôn luận...Muốn thành công thì một mặt chúng ta phải coi
chừng những kẻ muốn bịt miệng chúng ta, mặt khác phải có thái độ đứng
đắn. Chính quyền có điều đáng khen thì ta khen, chứ không nịnh; chính
quyền lầm lẫn thì chúng ta thẳng thắn nhận định với những lý lẽ vô tư và
vững vàng, những lời nhã nhặn và minh bạch. Chúng ta vì quốc gia mà xây
dựng. Tất nhiên có những lúc ta phải tỏ nỗi bất bình--chẳng phải của
riêng ta mà của quốc dân--chẳng hạn với những kẻ bán nước, hút máu mủ
của dân; lúc đó giọng ta có thể gay gắt nhưng lòng ta không có chút căm
thù cá nhân. Chúng ta đả một thái độ, một chính sách, chứ không đả một
cá nhân..." ("Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc nầy?",
Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, NXB Tao Ðàn, Sài Gòn, 1967,
tr.167-168).
Ở bài viết có đoạn vừa dẫn trên, ông đặt rõ vấn đề trách nhiệm của giới
nhà văn trước thời cuộc. Lúc bấy giờ là năm 1967, chiến tranh đang hồi
ác liệt, xã hội miền Nam đang sa sút trầm trọng nhiều mặt, tiếng nói của
người trí thức trở nên lạc lõng, khiến tâm tư ông cũng có phần chao đảo:"Người
cầm bút nào lúc nầy mà chẳng có nhiều buồn tủi rằng tất cả những cái
mình viết ra đều là bá láp hết, chẳng có một tác động gì cả, rằng mình
gần như vô dụng, may mắn lắm là khỏi đánh đĩ với cây viết...". Theo
ông trong số 5 nhu cầu, mục tiêu căn bản của người dân lúc đó (gồm: hòa
bình, chủ quyền, tự do dân chủ thực sự, mức sống tối thiểu của con
người, và kiến thức tối thiểu của một công dân) thì nhà văn hay người
trí thức chỉ có thể đóng góp cho phần mục tiêu sau cùng (giúp nâng cao
kiến thức tối thiểu của một công dân); tất cả những mục tiêu còn lại đều
hư ảo đành phải chịu bó tay bất lực hết. Và ông hô hào để làm được điều
đó, trước hết người cầm bút phải tìm cách san bằng cái hố ngăn cách giữa
mình với đại đa số nhân dân lao động phần lớn trình độ còn thấp kém chưa
thể hưởng thụ được thứ văn chương xa hoa tách rời cuộc sống thực.
Mặc dù đã có phần nao núng, ngờ vực vai trò của người trí thức trong
thời loạn, ông không nỡ ngừng bút mà vẫn tiếp tục viết để hô hào, cảnh
tỉnh đồng bào về những việc cần nghĩ, cần làm, chuẩn bị cho tương lai
lâu dài, và như ông thường nói, "khi hòa bình lập lại". Căn cứ trên tất
cả những gì Nguyễn Hiến Lê viết, người đọc thấy ông dường như không quan
trọng vấn đề ý thức hệ, nên ở vùng "quốc gia" mà ông cũng không hề có ý
kiến "chống cộng"; trái lại ông thường chê trách các chính quyền độc
tài, đặc biệt như thời Ngô Ðình Diệm mà ông gọi là "Ngô triều"; với các
nước Âu Mỹ, nhất là Mỹ, ông luôn luôn cảnh giác người dân phải thận
trọng, và cho rằng chế độ thực dân trên thực tế vẫn còn tồn tại, lẩn
quất đó đây dưới những hình thức mới. Với ông, chỉ có vấn đề phúc lợi
của dân chúng là quan trọng trên hết, chính quyền chỉ phụ thuộc và nhất
thời. Khi tự phát biểu về nhân sinh quan, phần nêu chính kiến ông nói:
"Làm nhà văn thì phải độc lập, không nên nhận một chức tước gì của
chính quyền". Rồi ông đi vào chi tiết hơn:"Tôi khuyên con cháu
đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân
dân...Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập; cùng
lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng quấy rối thôi, tuyệt nhiên không
được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của mọi người...Một
xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải nghề tự do thì không thể
gọi là một xã hội tự do được" (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn
Học, 1993, tr.553).
Tính cách trí thức của nhà văn Nguyễn Hiến Lê còn thể hiện ở chỗ ông
luôn luôn nhìn xa trông rộng, đặt vấn đề gì cũng dựa trên cơ sở văn hóa
khoa học vững chắc thu thái được từ kiến thức kinh nghiệm của muôn
phương để định ra chiến lược phát triển dài hạn. Vấn đề giáo dục ông đã
đặt ra một cách khẩn thiết từ năm 1953 với quyển Thế hệ ngày
mai (NXB Phạm Văn Tươi) vì thấy đây là chuyện quyết định cho vận
mệnh của cả dân tộc trong tương lai. Quan điểm của ông nhờ sự
nghiên cứu thấu triệt và có lẽ một phần nhờ ảnh hưởng đạo trung dung của
Nho giáo nên bao giờ cũng trầm tĩnh, đúng mực chứ không nông nổi xu
thời. Giai đoạn trước năm 1975, điều kiện thông tin còn hạn chế hơn bây
giờ nhiều, thế mà ông đã thu thập tài liệu rất đầy đủ để giới thiệu ra
cho đồng bào biết rõ những biến chuyển quan trọng trong tình hình thế
giới.
Theo chỗ tôi biết, tất cả những vấn nạn của thế giới mà bây giờ chúng ta
gọi là những vấn đề toàn cầu như nạn nhân mãn, tình trạng ô nhiễm môi
trường, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, hố ngăn cách giàu nghèo giữa các
dân tộc...đều được ông (và hình như chỉ có mình ông) đưa ra giới thiệu
đầy đủ và đánh động một cách nhiệt thành, tập trung trong quyển Những
vấn đề của thời đại (tháng 7. 1974) và một số bài báo khác. Trước đó
khá lâu, trong cuốn Một niềm tin (1965), ông đã dự báo được hầu
hết những điểm quan trọng về xu thế phát triển của thế giới để từ đó
định ra hướng phát triển của dân tộc, đến nay đọc lại vẫn còn hợp thời
để tham khảo. Theo ông:"Ta phải tùy hoàn cảnh, tài nguyên thiên
nhiên, mức tiến hóa xã hội, khu vực ảnh hưởng của nước mình...mà tạo lập
một nền kinh tế thích hợp với nước mình, chứ không nên bắt chước Âu
Mỹ...Dân tộc mình nghèo thì phải sống theo lối nghèo, đừng đua đòi Âu Mỹ
trong giai đoạn hiện tại, chúng ta chỉ nên nhắm mục tiêu nầy: làm cho
dân đừng đói rét, đâu cũng có đủ thuốc uống. Và đồng thời làm sao giảm
lần lần được sự bất công trong xã hội. Muốn vậy phải rút bớt mọi tiêu
pha không cần thiết" (Ðể tôi đọc lại, NXB Văn Học, 2001, tr.
228).
Ðến tháng 1.1975, khi thời cuộc đã biến chuyển tới hồi quyết liệt, trong
loạt bài "Nhân loại lâm nguy" đăng trên tạp chí Bách Khoa, một
lần nữa ông lại tha thiết đánh động tình trạng nguy cơ toàn cầu, giới
thiệu hai bản báo cáo mà cũng là cảnh cáo đầu tiên của nhóm Câu lạc bộ
La Mã (Club de Rome) về những vấn đề liên quan. Trong phần kết mà sau
nầy (năm 1978) ông cho tuyển lại dưới nhan đề "Chúng ta phải làm gì?"
trong tập Ðể tôi đọc lại (đến năm 2001 mới xuất bản), ông đã trên
cơ sở phân tích những biến chuyển của tình hình thế giới mà nêu lên một
loạt đề nghị từ đường lối phát triển tổng quát đến một số vấn đề liên
quan các lãnh vực giáo dục, y tế, chính trị, xã hội (hố phân cách giàu
nghèo, hạn chế sinh sản)... Ông lặp lại một quan điểm cơ bản đã nêu lên
từ 10 năm trước trong cuốn Một niềm tin: "Ðừng nhất thiết cái
gì cũng bắt chước Âu Mỹ, đừng theo đúng con đường họ nữa". Rồi ông
kết luận: "... Ðiều quan trọng nhất là chúng ta phải thay đổi
nhân sinh quan, xét lại quan niệm về hạnh phúc, định lại các giá trị và
mục tiêu ...Hạnh phúc của con người không phải ở chỗ có một lợi tức bằng
Mỹ hay hơn Mỹ. Không có gì sái và vô lý bằng lấy lợi tức đo sự văn minh
và hạnh phúc của một dân tộc...Dân tộc chúng ta cứ tự vạch một đường
lối, phát triển riêng, chẳng cần phải bắt chước ai hết, chẳng cần phải
mong theo kịp nước nầy hay nước nọ" (Ðể tôi đọc lại, sđd.,
tr.234-236).
Cách nay 30 năm mà chỉ một mình ông phát biểu được những lời đó,
mãi đến nay hầu như cũng không ai chịu nêu lên những ý kiến tương tự khi
bàn về hướng đi của dân tộc Việt Nam, tôi cho rằng ông Nguyễn Hiến Lê là
một bậc minh triết có nhiều tiên kiến nhưng hơi bị lạc lõng cô độc giữa
chợ đời.
Thời nào cũng vậy, các tầng lớp đặc quyền cũng vịn vào hai chữ "phát
triển" để lạm dụng; họ lấy cớ vì lo cho dân tộc bị thua kém thế
giới mà bày ra hết kế hoạch nầy đến dự án nọ, kỳ thật chỉ là để rút rỉa
chứ ít khi đạt được tính khả thi như mong muốn. Ngày nay, tạm thời bỏ
qua những phần tử lạm dụng xà xẻo đất nước, trong vấn đề phát triển kinh
tế-xã hội, vì mong muốn bứt phá tình trạng nghèo nàn lạc hậu mà
không ít người có thiện chí trong chúng ta cũng thường quen tìm đến
những giải pháp dễ dãi bằng những công thức có sẵn đã được nghe nói,
nhất là có khuynh hướng hô hào chạy theo những nước tiên tiến trong một
tâm thái luôn luôn sợ bị tụt hậu, mà không chịu nghĩ mình làm như thế là
nhằm đạt tới những mục tiêu gì xứng đáng, cho ai, có bảo đảm mang lại sự
bình yên hạnh phúc cho đại đa số quần chúng hay không. Hơn thế nữa,
trong điều kiện của quốc nạn tham nhũng và nhân tâm ly tán như hiện tại,
mọi sự phát triển thiếu chuẩn bị về nền tảng con người thường chỉ có thể
dẫn tới khả năng băng hoại ngày càng trầm trọng hơn, và trở thành cái cớ
cho một số kẻ gian tham lợi dụng. Vấn đề hiện nay là lấy lại bình tĩnh,
cân nhắc nên ưu tiên cho những mục tiêu trọng tâm nào. Nếu trình độ phát
triển kinh tế có đôi phần tụt hậu thật sự so với vài nước khác có cùng
mức khởi điểm thì điều đó cũng không quan trọng, vì vấn đề cốt lõi là
làm sao cho xã hội phát triển có trật tự hơn, dân chúng được sống vui vẻ
hạnh phúc hơn nhờ có sự công bằng và tin tưởng ở tương lai..., chứ không
phải nhắm mắt chạy theo cho được các nước tiền tiến. Trong chiều hướng
đó, thiết tưởng nên đặt ra những chỉ tiêu phát triển chậm vừa phải, thà
ít mà tốt, chứ không phải người ta vi tính hóa thì mình cũng vi tính
hóa, người ta thiết lập chính phủ điện tử thì mình cũng thiết lập chính
phủ điện tử..., và phải hướng mục tiêu phát triển vào việc phục vụ cho
phúc lợi của quảng đại quần chúng, trong đó nông dân và nhân dân lao
động nghèo là đối tượng chủ yếu.
Với tính cách của người trí thức luôn băn khoăn trăn trở và ý thức trách
nhiệm trước tiền đồ dân tộc, ông Nguyễn Hiến Lê còn thường tổng duyệt
lại những kinh nghiệm lịch sử, phân tích các mặt ưu khuyết điểm của
phương đông, phương tây rồi dựa trên thực tế văn hóa của nước mình để đề
xuất việc nào nên làm, việc nào nên tránh, rồi viết lại như những lời
tha thiết dặn dò. Trong bài "Con đường hòa bình" (sau có in thành một
tập sách nhỏ, rồi tuyển lại thêm lần nữa trong tập Ðể tôi đọc lại),
ông lại nhắc:"Cái tai hại của chúng ta là có mặc cảm tự ti, tủi rằng
cái gì mình cũng kém người, rồi mù quáng bắt chước người, chỉ mong theo
gót được người, không dám có một ý muốn riêng của mình...Ðã đến lúc
chúng ta phải tư tưởng lại...Phải nhận cái thực trạng của mình, cái hoàn
cảnh của thời đại, của thế giới...Trước hết chúng ta phải gột hết những
nhiễm độc của phương tây mà trở về tinh thần bao dung, bất đồng nhi hòa
của tổ tiên...". Cái ông gọi "nhiễm độc" chính là thói bất bao dung,
kỳ thị, tham quyền tham lợi của phương tây mà hễ còn thì thế giới sẽ
không bao giờ tránh được sự ly tán, chiến tranh, và hố ngăn cách giàu
nghèo quá đáng..., đúng như chúng ta thấy đang diễn ra trong tình hình
bất ổn của thế giới hiện nay.
Ngoài những vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng có tầm chiến lược như đã
giới thiệu sơ lược ở trên, Nguyễn Hiến Lê còn viết hàng trăm bài
báo đóng góp ý kiến cho nhiều vấn đề cụ thể quan trọng khác, mà vấn đề
nào ông cũng đề cập một cách thấu đáo tinh tường, đặc biệt liên quan đến
lãnh vực văn hóa giáo dục. Một số bài viết quan trọng ông đã cho gom in
thành tập Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (1967), mà bây giờ đọc lại,
tức là sau 36 năm, tôi thấy vẫn hoàn toàn hợp thời và có giá trị tham
khảo thiết thực.
Nhiều người quá khen, cho ông Nguyễn Hiến Lê là một nhà trí thức tầm cỡ
mẫu mực. Riêng tôi chỉ nghĩ ông như một người trí thức chân chính, thể
hiện ở phong cách sống và làm việc tận tâm trung thực, đem sự hiểu biết
của mình song song phục vụ bản thân còn phục vụ cho đời.
Hai chữ "mẫu mực" thường không nói đúng lên một ý nghĩa gì xác thực, nếu
không muốn nói có khi còn giả dối nữa; còn chữ "nhà" chỉ thích hợp để
chỉ nhà văn, nhà khoa học..., không thích hợp khi dùng cho người trí
thức hay người yêu nước. Vả chăng, bản chất của người trí thức gắn liền
với đức khiêm cung; lương tâm trí thức và lòng tự trọng khiến cho người
trí thức chân chính cảm thấy ngần ngại khi được đời quá tôn vinh sùng
bái hoặc gán cho những danh hiệu hoa mỹ nầy khác mà không sát hoàn toàn
với sự thực. Hơn thế nữa, ông Nguyễn Hiến Lê cũng không thể là một người
trí thức toàn diện hoàn hảo, theo nghĩa đạt đủ mọi thứ tiêu chuẩn. Có
người trách trong lãnh vực tư tưởng, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu
Nho giáo mà bỏ qua một số học thuyết lớn khác (như đạo Phật, đạo Ky-tô,
các trào lưu triết học phương tây, chủ nghĩa Mác...); ông chỉ làm việc
trong tháp ngà mà không dấn thân vào những công việc cụ thể của quần
chúng...
Những lời trách đại loại như trên, nếu có đúng cũng chỉ đúng một
phần khi đứng từ một quan điểm khác để đánh giá, vì mỗi người đều chỉ có
quyền chọn lựa một cách thế tồn tại và hoạt động ở đời, được một phần
hẳn phải mất một phần, ngay trong sự hưởng thụ cũng vậy. Người bận bịu
cho những việc có tính cách phong trào khó viết được nhiều sách, cũng
như người trực tiếp tham gia công tác nhà nước, hưởng bổng lộc thì
khó giữ được tinh thần khách quan độc lập... Duy có điều, do quá tôn
trọng nguyên tắc lề lối sinh hoạt để đảm bảo sức khoẻ và công việc,
suốt mấy mươi năm liền chỉ ngồi nhà đọc sách viết sách, tôi ngờ rằng
kiến văn, vốn sống của ông Nguyễn Hiến Lê cũng có phần hạn chế trong
chốn sách vở mà thiếu sự thâm nhập thực tế sinh động của đời sống vốn
rất đa dạng, thành ra có thể ông hiểu đời qua sách vở, tiểu thuyết
chứ không hiểu thấm trực tiếp hết những lẽ và nỗi ngoắt ngoéo khó khăn
của cuộc nhân sinh hoan lạc nhưng cũng đầy thống khổ, phức tạp.
Một bạn tri kỷ của ông Nguyễn Hiến Lê đã tìm cách biện hộ cho ông:"
Không xông xáo tham dự trực tiếp vào mọi sinh hoạt, công tác xã hội,
không thấy mặt ông ở nơi "trọng thể", hội hè đông đảo... nhưng không có
vấn đề nào cấp thiết liên quan đến đến công cuộc cải tiến dân sinh, xã
hội... mà không có những bài viết thiết thực kịp thời của ông để bày tỏ
quan điểm của mình một cách minh bạch hay góp ý kiến xây dựng hết sức
khách quan và thẳng thắn với chính quyền, với các giới tổ chức liên hệ.
Những loạt bài về thanh niên, về chương trình học, thi cử, đào tạo giáo
chức, cách mạng giáo chức, về tâm lý sinh viên xuất ngoại với những biện
pháp thích nghi hầu cứu vãn tình trạng trước "nguy cơ xuất não", về xuất
bản sách báo, kiểm duyệt...chứng tỏ rằng khi cần nói thẳng thì ông không
ngần ngại nói ngay lên sự thật, nói lên cảm nghĩ chống đối của mình,
song vẫn chân thành, có tinh thần xây dựng, không đả kích cá nhân, thành
ra không ai làm khó dễ ông. Trên công việc làm, ông tiêu biểu cho hạng
người cần mẫn, siêng năng, nói ra là tin cậy được..." (Châu Hải Kỳ,
sđd., tr.72-73).
Giả định có thể đồng ý thêm một số phân tích như trên, có lẽ người đời
cũng không cần đòi hỏi thêm gì ở nhân vật đã đủ đáng kính trọng nầy, khi
xét trên phương diện ông Nguyễn Hiến Lê là một người trí thức chân
chính, có cuộc sống thanh bạch và đóng góp được ngần ấy những lợi ích
cho cuộc sống. Ðể tạm kết luận về người trí thức Nguyễn Hiến Lê, tôi xin
mượn đoạn định nghĩa sau đây của Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô
Dmitri Sergeievich Likhachov (1906-1999) để khẳng định thêm đôi chút về
ông:" Theo kinh nghiệm đường đời của tôi, trí thức là những người tự
do về thế giới quan, không bị phụ thuộc vào những sức ép về kinh tế,
đảng phái, nhà nước, không chịu một bổn phận nào về tư tưởng. Nguyên tắc
chính của tính trí thức là sự tự do về trí tuệ, sự tự do như một phạm
trù đạo đức... Tôi muốn nói rằng một nhà bác học chưa chắc đã phải là
trí thức. Họ không còn là trí thức khi quá chú mục vào chuyên môn của
mình mà quên mất ai sử dụng thành quả lao động của mình và sử dụng như
thế nào. Khi đó, do theo đuổi những lợi ích chuyên môn, họ đã coi nhẹ
lợi ích đồng loại và những giá trị văn hóa...".
8.2003
|