Liệng
Trong Miền Lỗ Mũi
Trần Chiến
Anh tôi vào
Khi lọ mắm tôm chua còn con lẻ loi, tôi
đã “tỉnh” để nhận ra mùi nó gắt gỏng, đáo để, không dịu như mắm tép. Mẹ
tôi sành làm mắm, con tép gạo chín trong rượu, thính ngả sang nâu hồng,
ăn lúc vừa ngấu còn hình thù ngon hơn khi đã nục, tỏa mùi níu kéo bịn
rịn hơn là giục giã. Sau này nhà văn Sương Nguyệt Minh có truyện hay về
mùi người. Công chúa Ngọc Hân vợ vua Quang Trung có em gái là Ngọc Bình,
lấy ông con - Quang Toản. Vua Gia Long lúc diệt xong nhà Tây Sơn gặp
Ngọc Bình, ngửi phải dị hương tỏa ra từ thân thể nàng không thể cưỡng
nổi mà đem về làm phi. Vương giả mà sài lại thế thì biết mùi người, ở
đây là mùi con cái, vẫy gọi lắm. Xét trên sự lựa chọn vẫn của cái mũi,
nhưng ngoài chuyện đực cái, mắm tôm chua lẳng lơ hơn mắm tép. Vậy nên
nước mắm khắm lịm, mắm tôm Nghệ An
nhặng xị phải gọi là “đĩ thõa” mới phải. Và cách Huế có con đèo
Hải Vân, dải miền Trung như một vương quốc các loại mắm, dậy mùi vô kể,
hợp tấu với bánh tráng và ú hụ rau sống. Một miếng “cả cái” đầy mồm là
cái chắc, nên mắm không thể là “nhã vị”. “Gầy như mắm”, “Thằng thêm mắm
thêm muối”, những so sánh không có ý tán thưởng, gọi nhau “Đồ mắm thối”
đã thành câu mắng rồi. Mắm là nạn nhân của Nho giáo – vốn coi đàn bà chỉ
là chỗ truyền giống – chăng, kẻ ăn mắm, nghiện mắm nhưng coi rẻ nó dễ là
bậc quân tử, vừa ăn vừa bịt mũi, thế hẳn?
Sau này tôi gặp mắm tôm chua nhiều lần,
biết Huế rõ hơn, bèn chờm ra câu hỏi: sao xứ núi không cao con người đi
lại từ tốn sông nước cứ chầm chậm này lại chế ra cái món đanh đá, lắm vị
đối chọi trong mồm vậy? Và cư dân Thần kinh lại ăn nhồm nhoàm a? Bâng
quơ thế thôi, không phát triển tiếp được, vì chưa đủ trình luận nết ăn
nết người nó liên quan đến hình sông thế núi như nào. Nhưng lọ mắm năm
hòa bình về cho tôi biết nhân sinh còn ăn bằng mũi nữa, ngoài mắt, mồm. Rồi nhà văn Hòa Vang, với truyện ngắn “Ăn kêu” ca ngợi tiếp phép ẩm thực qua đằng tai. Kể mà cầu kỳ và đủ tài theo gót mươi cái điều kiện để ăn ngon của cụ Tản Đà được, hẳn ra được một dòng văn chương ẩm thực dậy mùi ấy chứ.
#
“Ngán thay cái mũi vô duyên / Câu thơ
Thi xã con thuyền Nghệ An”, có câu chê văn nhau cay nghiệt vậy, truyền
là của Cao Bá Quát. Thuyền Nghệ An hay chở nước mắm, lâu ngày mùi ngấm
cả vào vỏ gỗ. Nhưng nước mắm Nghệ An không phải loại ngon, ít ra chả nổi
tiếng bằng đồng hương tương
Lại
ngày đẹp trời, tĩn mắm khô đáy, chỏng chơ góc rừng... Thôi không dám
tưởng tượng tiếp.
Nước mắm không thể thiếu trong mâm cơm
gia đình và vô số dịp thịnh soạn. Nồi phở hà tiện chỉ chế nước mắm hạng
nhì thì dù ninh xương ống nghiêm chỉnh đủ cả gừng quế thảo quả ném vào
vẫn kém hẳn. Miền
Đêm rét lọt áo bông, cậu mợ đi bên nhau
im lìm. Vợ chồng đang sang đoạn đổi tính, lâu nay ít dám chuyện trò cao
hứng, lắm khi này đang vui bỗng nọ đùng đùng khói lửa. Chợt cậu thốt:
“Cha tiên nhân đứa nào đậy nồi phở không kỹ. Quá bằng giết người không
dao!”. “Nhưng nước mắm nồng quá khí đặm”. Cuộc cãi cọ nho nhỏ chết non
khi kiểm điểm ra tiền, bèn hùng dũng tiến vào. Hửi hửi, nếm náp rồi mê
man thưởng thức, chèm chẹp chút nước ninh cuối bát. Sướng thế có thế
chứ, được chén ngay tại trận, nghe tiếng vét nồi quèn quẹt, nhìn làn hơi
nóng bốc lên mà phập phồng cánh mũi, đâm thương hại kiều bào ở nước
ngoài chỗ ăn phải cách ly thật xa gian nấu. Thương nữa là những ông quá
nệ phép vệ sinh, không chịu được rổ xương cuối nồi bốc khói ngùn ngụt,
thêm chén “nước lọc” là thăng hoa lúc gần gần nửa đêm được. “Bốc mộ”,
tên “món” quá khủng bố nhưng đố ai thay nổi. Và bước ra, mồ hôi rịn
lưng, ngửi hít nhau hương tình tinh khôi như thời trẻ, đêm đông lãng mạn
lên bao nhiêu. “Hạnh phúc quá đơn sơ đời tôi đâu có ngờ”, cậu mợ sẽ dắt
tay nhau húp đến thìa nước cuối của “bát phở cuộc đời”. Cũng thế, một
ngày nhẵn túi, chỉ bún con chấm nước mắm chanh ớt, chả phải chỉ qua bữa
mà biết đâu còn nghía nhau đắm đuối được.
Hàng bún đậu ấy “trên bình dân”, lá
chuối lót mẹt có dồi rán, muốn chả cốm nữa cũng được. Kiểu gì cũng không
thể thiếu nước mắm hay mắm tôm, gọi lũ ruồi kéo đến. Chỗ giả tiền có lọ
kẹo bạc hà, ngậm xong đi nhà nghỉ tha hồ thơm tho. Ô hay, vừa gật gù
thưởng thức người ta giờ lãng mạn nhất lại đuổi người ta thẳng cổ. Chao
ơi những tình trưa, để được nhã nhặn cứ nhất thiết phải bạc bẽo tàn nhẫn
vậy à.
Mà mắm miếc, với tính cách mạnh mẽ, quá
cởi mở, đột nhập rồi chiếm lĩnh mâm cơm người Việt, dường như lại không
có vị trí rưa rứa ở nước
người. Mạng bảo Pháp, Thụy Điển có món chấm từ cá muối nhưng các kiểu
sốt còn thiết yếu hơn. “Ăn cơm Tầu ở lầu Tây lấy vợ Nhật”, mà Trung Hoa,
dù đường biển dài gấp mấy ta, lại ưa những mìn xì, xì dầu, tàu xì, chao…
chế từ đỗ đậu. Toàn là thực vật, khi phơi phóng chế biến đố tránh được
ruồi nhưng không nặng mùi như mắm. Tiệc ngoại giao dùng ly rượu to đút
hẳn mũi vào nhưng không khoe nước mắm. Trong ngũ quan, người ta thường
chỉ mời nhau nghe ngắm nếm náp đụng chạm, mấy ai mời ngửi, chả phải vì
nó không đáng giá, mà do chẳng được tinh nhã chăng. Vị trí của món ẩm
thực cứ phải ngửi mới thưởng hết giá trị, có lẽ nên so với những bộ phận
ô trọc trên thân thể ta, thiếu thì loạn lên nhưng nhắc đến thời tránh né
ý nhị. Ấy vậy mà nhiều tộc người chân chất kiêu hãnh khoe thú ngửi. Mắm
bò hóc Kh’mer làm từ cá ươn, có
tiêu, tỏi, ớt “đỡ đần”. Người Thái nửa ngày ăn trên nương nên giỏi món
nướng, con cheo con nhím qua lửa chấm nậm pịa chế từ dịch ruột non bò,
ngựa, dưới xuôi ác mồm gọi “cứt non”. Tả thế thì phải nhắm mắt bịt mũi
mới ăn được, nhưng những đợt Tây Bắc tôi chén tỳ tỳ, ngon dã man nhưng
phải điều dăm chén vào bụng cho yên tâm. Chợ Bắc Hà Lào Cai, Mèo Vạc Hà
Giang, chảo thắng cố sùng sục, lòng mề tim phổi nhào lộn, trong ngầy
ngậy có gây gây. Lên cao nữa, vùng H’Mông khô khẳng, bộ lòng lợn hay
ngựa bò tống hết cặn bã thì lộn trái, ra đám cỏ tranh quét đi quét lại
rồi rửa, đến lúc vào nồi được chỉ hết xô nước. Ấy là chỉ nghe nói thế
chứ chưa tận mắt mũi mồm. Và tưởng tượng “gây gây” lên đẳng cấp “hoi
hoi”. Có thế chứ, với anh là xú khí xú vị thì tôi coi là quốc hồn quốc
túy, nên chi “ông” U nét cô đứng giữa mới dàn hòa bằng định nghĩa “Văn
hóa là sự khác biệt”.
Viết đến đây chỉ muốn chửi cha cái lũ
định khai tử nước mắm truyền thống. Những cán bộ “chức năng” ấy ăn dơ
dáy gì gì mà dẫm lên bàn thờ!
Giờ giao thương phát triển, ngồi một chỗ
vẫn thưởng được mắm tôm Nghệ An, mắm tôm chua Huế, nước mắm Phú Quốc,
Phan Thiết… các kiểu. Nhưng siêu thị chưa bầy nậm pịa đóng hộp, bò hóc
vào túi ni lông. Và ăn món ta thì phải rượu ta, cùng lắm là vốt ka, chứ
giao duyên uých ky, cốt nhát vào thì vứt cả đôi đằng.
Ác cái là lắm
khi văn minh lại không đồng nhất với văn hóa. Công nghệ phát triển tiêu
diệt nhiều thống khoái bản năng. Bát phở bốc hơi ngùn ngụt, miếng chín
gầu bùi béo vẫy gọi, cả bàn nhất tề lấy điện thoại chụp đưa phây, nhận
lại những phẩm bình “ga tô”[1]
y hệt nhau, há chả phải đổi cực phẩm thật lấy hư ảo nhạt nhẽo a. Đến lúc
cần vục mặt thưởng thức lại phì phèo thuốc mắt lướt mạng, cứ như không
biết những điều ai ai cũng biết thì mình ra kém cỏi. Thậm vô lễ! Rồi ra
làm tình cũng tác trách vậy? Và vác về nhà những nước mắm công nghiệp
ong óng vàng nực hương liệu đánh lừa cả mũi hàng xóm. Chao ôi là tội
nghiệp cho dân đồng rừng, đến các bản làng hẻo lánh, hàng tạp hóa chỉ
bầy bán thứ nước chấm trong chai nhựa.
Và tệ nạn nữa. Cây quất chơi Tết xong,
quả vứt đi thì tiếc, bèn lên mâm thay chanh. Món thường bữa thường thế
thân khả dĩ, nhưng đĩa thịt chó hấp nằm cạnh bát mắm tôm vắt quất, chửi
bố cái thói hà tiện lên được. Nhà quán vênh váo “Chỉ thế không ăn thì
bước”, tử tế ra thì “Chín bỏ làm mười thôi ông ơi”. Dậy mùi mắm tôm
quất. Tan mất mùa xuân! |