QUÂN ĐộI NHÂN DÂN (Cuối tuần)
10-6-21

https://ct.qdnd.vn/van-hoc-nghe-thuat/khong-can-hu-cau-526945

 

SỰ THẬT CUỐN HÚT ĐẾN KHÔNG CẦN HƯ CẤU

(Đọc “Trần Hữu Nghiệp, đời là kẻ sĩ” của Đỗ Viết Nghiệm - NXB Thanh Niên 2021)

Phần đông chúng ta đi làm cách mạng là để giải phóng cho chính mình, cho gia đình mình, nói rộng hơn là cho quê hương đất nước mình khỏi áp bức bóc lột. Còn Trần Hữu Nghiệp tham gia cách mạng  trong bối cảnh gia đình rất khá giả, có nhiều ruộng đất,(13 mẫu ruộng). Ba ông đang là Đại hương cả, hai yếu tố đó nếu vào thời Cải cách ruộng đất, rất dễ bị đấu tố, bị khép tội nặng thành phần địa chủ. Ấy vậy mà ông Trần Hữu Nghiệp dám từ bỏ cuộc sống đủ đầy sung sướng để tham gia Cách mạng.

Năm 1935 khi học xong  4 năm Trường Y khoa Đông dương tại Hà Nội, ông sang Pháp học tiếp 2 năm để lấy bằng doctor ( bác sỹ) tại Trường Đại học Y Paris. Trở về quê hương ở, Trần Hữu Nghiệp mở phòng mạch tại Mỹ Tho, thời đó bác sỹ còn ít, phòng mạch của ông rất đông khách, tiền vô nhiều như nước, đến nỗi ông phải “ rùng mình khó chịu”. Có vợ đẹp cùng 3 người con khôn,(Vợ cũng là con đại điền chủ, Huyện Hương Điểm, tỉnh Bến Tre), thế mà ông đành bỏ cái gia tài ấy, gia đình ấy, để đi vào vùng kháng chiến, chịu đựng thiếu thốn, gian khổ, hy sinh. Đến nỗi vợ bỏ đi lấy chồngTây. Như vậy Trần Hữu Nghiệp phải hy sinh nhiều, nhiều lắm. Bởi Trần Hữu Nghiệp có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù bọn ngoại bang đang dày xéo quê hương mình, nên ngay từ khi còn đang học trường Trung học công tỉnh Bến Tre, cậu học trò Trần Hữu Nghiệp đã tham gia tuần hành trong đám tang cụ Phan Chu Trinh, làm chấn động tỉnh lỵ Bến Tre. Kết quả cậu và một số học sinh khác bị đuổi học.

Trần Hữu Nghiệp là người vượt biên ra miền Bắc để báo cáo Trung ương, Bác Hồ, về tình hình  Nam  bộ và xin vũ khí vào chi viện cho chiến trường Nam bộ. Đoàn vượt biên đi bằng thuyền gồm 5 thành viên trong đó có bà Nguyễn Thị Định, họ là những người đặt “nền móng” cho con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển sau này (Đoàn tàu không số).

Trần Hữu Nghiệp được Bác Hồ, Chính phủ mời tham gia vào Ban chấp hành và là đảng viên đầu tiên của đảng Xã hội Việt Nam. Ông từng là hiệu trưởng trường Cán bộ Y tế Trung ương ở miền Bắc suốt 10 năm, đào tạo hàng ngàn y, bác sĩ cho cả hai miền, nhất là trong chiến trường Nam bộ, đầy hiểm nguy và gian khổ. Ông hai lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Qua tác phẩm, ta cũng được biết về kỷ niệm đẹp của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp với bác Tôn trong chuyến tháp tùng bác Tôn sang Liên Xô và Cộng hòa dân chủ Đức, họ có  tình cảm tốt đẹp, đầy ấn tượng với nhau. Người chứng kiến và khâm phục trình độ tiếng Pháp của bác Tôn khi bác sửa lại những trang bản thảo của ông; chứng kiến phong cách làm việc cẩn thận, rất liêm khiết của bác. Một chi tiết rất “Thâm cung bí sử”: khi Đoàn trở về đến Bắc Kinh được Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc  Lưu Thiếu Kỳ tiếp. Lúc rượu Mao Đài ngà ngà, Lưu Thiếu Kỳ nói : “Đảng các đồng chí thành lập sau đảng của chúng tôi mà mười lăm năm đã giành được chính quyền, nay nếu phải chờ năm mươi năm nữa mới thống nhất đất nước cũng là sớm”, câu nói đó làm “ly rượu trên tay bác Tôn nổi sóng, bắn ra những tia rượu rơi xuống mặt bàn ướt sũng”. Bác Tôn xúc động thật sự, bởi chỉ còn không bao lâu nữa, theo hiệp định Giơ-ne-vơ, chúng ta tin rằng tổng tuyển cử sẽ diễn ra hai miền Nam Bắc, thống nhất Tổ quốc. Vậy mà sao Lưu Thiếu Kỳ nói câu đó? Quả nhiên Hiệp định Giơ-ne-vơ không được thi hành, chúng ta phải chiến đấu hơn 30 năm mới thống nhất đất nước. Lưu Thiếu Kỳ có phải là nhà tiên tri?

Đỗ Viết Nghiệm có giọng văn như thứ rượu quý, dìu dịu, nồng nàn, rất dễ lôi cuốn người uống say lúc nào không biết. Bởi vậy ông viết đến 4 cuốn truyện ký, tôi đọc cuốn nào cũng bị giọng văn của ông chinh phục, phải đọc một mạch cho đến trang cuối cùng, mặc dù đó chỉ là truyện ký về người thật việc thật, đây là ưu điểm của anh do vốn kiến thức, vốn sống phong phú, đó có lẽ còn là vốn trời cho nữa.

Cuộc đời của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có quá nhiều sóng gió, vô cùng phong phú và cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hào hùng, như bài ca vĩ đại, mỗi con người sống, chiến đấu như những người anh hùng, chỉ cần viết như thật đã là những tấm gương điển hình, tính cánh điển hình của người anh hùng. Không cần hư cấu vẫn hấp dẫn như một cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolai Otrovsky. Trần Hữu Nghiệp như nhân vật Pavel - cũng trui qua lửa đỏ của cách mạng với lòng yêu nước nồng nàn.

Tôi vừa đọc lại cuốn “ Sử ký Tư Mã Thiên”  và cuốn “Thủy Hử” của Thi Nại Am, đến khi đọc Trần Hữu Nghiệp đời là kẻ sĩ, liên tưởng những nhân vật như Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Dương Quỳnh Hoa, tướng Nguyễn Thị Định, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, cha mẹ, vợ con bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và hàng trăm nhân vật khác hiện lên xung quanh nhân vật chính Trần Hữu Nghiệp như những người anh hùng. Họ có tính cách, có số phận, có hành động như những nhân vật lịch sử của Tư Mã Thiên, hay tính cách điển hình sinh động của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhà văn khắc họa được một nhân vật để người đọc nhớ khó lắm thay. Bởi vì nhớ nhân vật độc giả mới nhớ đến tác giả. Đỗ Viết Nghiệm, chỉ bằng truyện ký của mình đã cho chúng ta nhớ được khá nhiều nhân vật, họ vừa có thật, vừa như huyền thoại, đó là thành công của cây bút khắc họa nhân vật không cần hư cấu.

Nguyễn Trường.

 

Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp

LỜI THỀ TẬN HIẾN CHO DÂN CHO NƯỚC

Phạm Quang Đẩu

 

Trung tuần tháng ba vừa qua, tại Tp.Hồ Chí Minh đã diễn ra lễ gắn biển tên đường “Trần Hữu Nghiệp”, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của bác sĩ, nhà giáo nhân dân Trần Hữu Nghiệp(15-3-1911-15-3-2021), nguyên Tổng thanh tra quân y Việt Nam; nguyên Phó giám đốc Sở Y tế quân dân Nam Bộ; nguyên Ủy viên đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Một thời ở Nam Bộ ông được nhiều người dân và đồng nghiệp rất mực yêu quý, kính trọng gọi là “thầy của những bậc thầy”...

Bác sĩ Trần Hữu nghiệp sinh ra trong một gia đình nông dân tại xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Sớm có tinh thần yêu nước, mới 15 tuổi ông đã tham gia truy điệu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh mà bị đuổi học khỏi trường công ở Bến Tre. Ông lên Sài Gòn xin vào trường tư thục Huỳnh Khương Ninh, với sức học trội bật, ông học nhảy lớp. Năm 1928, đỗ thứ nhì Brevet élementaire, được chính thầy Huỳnh Khương Ninh vận động xin cho học bổng học tiếp ở trường Chasseloup Laubat. Năm 1931 ông thi đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội, 6 năm sau có bằng bác sĩ hạng ưu và được sang Pháp tu nghiệp. Năm 1939 ông về nước mở phòng mạch tư ở thị xã Mỹ Tho. Cách mạng Tháng tám 1945 nổ ra ở Nam Bộ, cùng với nhiều trí thức yêu nước ở Pháp về, như các bác sĩ: Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Hữu Trí...ông gia nhập Việt Minh. Rồi bước ngoặt cuộc đời bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vào tháng 3-1946, khi ông đang phụ trách cứu thương ở mặt trận cù lao An Hóa, được gọi về Khu 8, tham gia phái đoàn cùng giáo sư Ca Văn Thỉnh và bà Nguyễn Thị Định ra Bắc gấp để báo cáo tình hình với Trung ương xin chi viện vũ khí cho Nam Bộ. Đến Hà Nội, phái đoàn được Hồ Chủ tịch tiếp và sau đó bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được giữ lại công tác ở Cục Quân y vừa mới thành lập. Cuối năm 1946, Toàn quốc kháng chiến, ông rời thủ đô đi thanh tra quân y ở Bắc Bộ và Liên khu 4. Do có nguyện vọng trở về quê hương chiến đấu, ông tiếp tục đi sâu mãi vào phía Nam với trách nhiệm Tổng thanh tra quân y. Giữa năm 1947, ông cùng bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng vừa từ Sài Gòn ra chiến khu bắt tay xây dựng ngành y tại căn cứ, được cử làm Phó giám đốc Sở Y tế quân dân y Nam Bộ, trực tiếp phụ trách các tỉnh Khu 8. Bắt đầu từ đây ông vừa làm thầy trên bục giảng, vừa trực tiếp khám chữa bệnh, ở đâu, lúc nào cũng nêu cao y đức và chính ông là tấm gương sáng về y đức. Bà Đoàn Thúy Ba, hiện ở Tp.Hồ Chí Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế nhớ lại: “Năm ấy tôi học lớp y tá Miền của thầy Trần Hữu Nghiệp. Thầy lên lớp bao giờ cũng thu hút chúng tôi do cách diễn đạt khúc triết, lô-gic, đôi khi hài hước, dí dỏm. Thầy còn là pho sử sống về nền y tế cách mạng, những gương hy sinh của cán bộ y tế mà thầy đã kể còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi đến ngày hôm nay. Lần ấy vào lúc nửa đêm, có tin báo một chị cán bộ trong cơ quan đang trở dạ, là một ca đẻ khó. Thầy trò choàng túi cứu thương, đốt đuốc lá dừa xuyên rừng đến nơi ngay. Đứa trẻ đã được đỡ ra oe oe cất tiếng khóc chào đời, nhưng sản phụ đang kiệt sức do bị “nhau tiền đạo”, máu tuôn xối xả. Ngón tay thầy bấm chặt vào động mạch bụng của sản phụ để cầm máu và bảo chúng tôi: Máu thầy thuộc nhóm B, hãy xem sản phụ nhóm máu gì? May sao chị cũng cùng nhóm máu, vẻ mặt thầy bớt căng thẳng, ra lệnh tiếp: Lấy máu thầy trích thẳng vào tĩnh mạch cho sản phụ! Bằng cách tiếp máu trực tiếp, kịp thời như vậy đến sáng đã cứu được người mẹ. Tôi còn được chứng kiến một ca cấp cứu khác của thầy. Có anh chiến sĩ trẻ bị đạn địch bắn nát chân đưa về hậu cứ. Vết thương đã hoại tử, đành phải cưa chân để cứu người. Phương tiện lúc đó quá thiếu, thầy mổ chính, đã động viên anh thương binh: Không có thuốc gây mê, gây tê, rất đau đấy, em ráng chịu nghen! Anh thương binh mất nhiều máu mặt nhợt nhạt, nhưng còn tỉnh táo. Bỗng anh đề nghị kíp mổ dừng vài phút. Mọi người chưa hiểu chuyện gì, thì anh bất ngờ cất tiếng hát, bài Tiến quân ca. Dường như bài ca đã lấy lại tinh thần cho anh, hát xong anh nhỏ nhẹ bảo: Bắt đầu được rồi, thưa bác sĩ. Thầy cầm con dao phẫu thuật lên mà dòng lệ chảy dài trên gò má, chúng tôi thì ai cũng mím môi để khỏi bật ra tiếng khóc khi phụ mổ cùng thầy…”

Năm 1966, tại chiến khu bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được đứng trong đội ngũ Đảng CSVN. Tại sao tham gia cách mạng đã hơn 20 năm đến lúc đó bác sĩ mới vào Đảng? Nguyên do là lần ra Hà Nội năm 1946, chính Bác Hồ đã yêu cầu bác sĩ  cùng các ông Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám lập đảng Xã hội, đảng của trí thức yêu nước để tham gia vào chính phủ cách mạng lâm thời. Rồi nhiều năm trôi qua, đã đến lúc cần ông chính thức đứng trong đội ngũ người cộng sản. Nhà thơ nữ Lê Giang, sinh năm 1930, hiện ở TP.Hồ Chí Minh, nhớ lại: “Dưới cánh rừng miền Đông Nam Bộ, chi bộ tổ chức lễ kết nạp, tôi được phân công chuẩn bị lời thề cho bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Nhưng ông bảo: Khỏi cần, tôi tự thề. Và dưới cờ Đảng, cờ Tổ quốc ông đã thề cống hiến toàn bộ tâm hồn và sức lực cho nước, cho dân, lời thề xuất phát từ trái tim nhiệt huyết của ông.”

Bên cạnh việc giảng dạy và trực tiếp khám chữa bệnh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn rất hứng thú với việc viết sách, báo phổ biến kiến thức y học. Từ năm 1943 ông đã in cuốn Phép nuôi con; rồi năm 1962: Chữa bệnh cho con khi xa thầy thuốc; năm 1975: Chủ động bảo vệ hạnh phúc gia đình; năm 1978: Nói chuyện với người uống rượu; năm 1981: Nói chuyện với người hút thuốc. Tập hồi ký Thời gian trong mắt tôi (NXB Văn nghệ 1993) là cuốn sách đáng chú ý nhất. Trong đó, ông là người trong cuộc của nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, lần đầu tiên được mô tả với giọng văn chân thực và cảm động. Đoạn  dưới đây kể về một kỷ niệm giữa ông với Chủ tịch Tôn Đức Thắng: “Bác Tôn râu tóc bạc trắng, tướng đi đĩnh đạc. Bên cạnh là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong tiếng vỗ tay lúc khai mạc buổi lễ, trí nhớ tôi lại đang vướng vít trong hai cảnh cũ ở Hà Nội năm nào. Cảnh thứ nhất: câu lạc bộ Ba Đình, tháng 8 năm 1958. Một nhóm khách, đông không quá vài trăm, được Phủ Chủ tịch mời đến dự lễ gắn Huân chương Sao Vàng cho Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức Thắng nhân dịp mừng thọ thất tuần. Tôi được đến với tư cách là Ủy viên trung ương Mặt trận Tổ Quốc và đồng hương với Bác Tôn. Khai mạc, Bác Hồ nói mấy lời, nêu thành tích và công lao của Bác Tôn, gắn huân chương và ôm hôn giữa tiếng vỗ tay vang dậy. Hôm ấy, Bác Tôn mặc bộ đồ ka ki giản dị. Trước tim, bên ngực trái, là Huân chương Sao Vàng vừa gắn, lóng lánh dưới đèn điện. Phía ngực phải, là huân chương nước ngoài theo quy ước quốc tế, trong đó có Huân chương Cách Mạng tháng Mười mới được tặng, mà tôi đã có dịp đi tháp tùng Bác sang Liên Xô nhận.  Mắt Bác như rớm lệ, tay run run khi nâng chén rượu mừng và nói vài lời đáp từ thật giản dị: Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ, lúc nhỏ đã lên Sài Gòn học nghề để tha phương cẩu thực. Chưa lần nào tưởng tượng ra cái vinh dự tuyệt đỉnh của chiều hôm nay. Không biết nói gì hơn là từ đáy lòng, xin mãi mãi ghi ơn Đảng, Hồ Chủ tịch và sự có mặt của tất cả các đồng chí đến chúc mừng tôi.

 Cảnh thứ hai: Mùa hè năm 1965, Bác Tôn, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc trung ương, đã nhận được đơn xin từ chức Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc của tôi, bởi lần đi công tác này vào Nam chắc chắn là phải sẽ kéo dài nhiều năm, không hẹn ngày trở lại. Một buổi chiều, chị Tám Nguyễn Thị Lựu, phó Tổng thư ký Mặt trận, mời tôi đến trụ sở Mặt trận dùng bữa cơm thân mật tiễn đưa. Ngoài chị Tám chỉ có thêm hai người dự là Bác Tôn và đồng chí Trần Hữu Duyệt, Tổng thư ký Mặt trận. Xong, Bác tiễn tôi ra tận cổng 48 phố Tràng Thi, giọng nói run run, chậm chạp, đầy xúc động như năm nọ lúc nhận huân chương: Anh về trỏng, nói giùm với đồng bào Nam Bộ và tất cả đồng chí, anh em, rằng tôi rất nhớ quê hương, chỉ mong đợi ngày về. Nhưng sắp đến 80 rồi, còn có ai cho đi nữa...”

  Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam trong một bài viết vào năm 1993, có đoạn: “Năm 1949 trong vùng kháng chiến đất U Minh, tôi có tình cờ đọc được quyển Hồ Chủ tịch trong lòng dân tộc của tác giả Hằng Ngôn, nhà xuất bản Bến Tre. Đây là cuốn sách văn học đầu tiên tôi được đọc trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp, để lại ấn tượng rất sâu sắc, sau này tôi mới biết tác giả Hằng Ngôn chính là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Giọng văn của cuốn sách tươi xanh dòng ngôn ngữ nông dân Nam Bộ, quý hơn dưới những con chữ của anh là sự uyên bác của một trí thức, y học của văn học. Y học của người thầy thuốc, trong anh đã cất tinh thành văn học.”

Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có 6 người con, đều đã thành đạt. Hồi đầu năm 1947, các con ông còn thơ bé,  phải xa chúng để đi làm cách mạng, ông đã có bài thơ Nhớ con thật mộc mạc, xúc động: Ra đi con Dũng mới u ơ/Hai trẻ Trí-Dung quá dại khờ/Chân bước xuống xuồng ba rớm lệ/Hôn con, dặn lại gì bây giờ… “Dũng” chính là giáo sư, tiến sĩ kinh tế Trần Hữu Dũng, chủ trang mạng Viet-studies.net nổi tiếng hôm nay. Ông từng sang Mỹ du học từ năm 1963, sau khi tốt nghiệp kỹ sư điện tử và cử nhân vật lý, ông về nước làm chuyên viên tại Trung tâm Nghiên cứu nguyên tử Đà Lạt. Năm 1972, ông qua Mỹ lần nữa và lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại đại học Syracuse. Từ năm 1982, ông dạy môn kinh tế vĩ mô, kinh tế quản lý và kinh tế thế giới tại đại học Wright State. Ông chuyên nghiên cứu kinh tế vùng Đông Á, trên phương tiện truyền thông ông cũng là một trong những nhà khoa học Việt kiều có đóng góp về đổi mới tư duy kinh tế cho chính phủ Việt Nam.

 

 Ảnh theo bài: Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp(người đeo kính)
đến thăm vợ chồng nhà sử học Trần Văn Giàu(Tp.Hồ Chí Minh, đầu năm 1994).