Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Quê hương, dân tộc, toàn cầu hoá
Trần Hữu Dũng
Có lẽ bạn, cũng như tôi, khi du lịch hoặc đến làm việc ở một nơi mà
giọng nói hoặc diện mạo của mình không giống người địa phương, thường
được hỏi: Ông/bà từ đâu đến? Hoặc, thân mật hơn,
gốc gác của ông/bà ở đâu?
Câu hỏi ấy, thoạt nghe thì đơn giản nhưng lắm khi không dễ trả lời.
Tôi là người Việt Nam, sống ở Mỹ nhiều năm, nên mỗi khi tôi sang
Âu Châu, chẳng hạn, khi được hỏi "anh từ đâu đến?" thì tôi không khỏi
ngập ngừng trong vài giây để chọn câu trả lời: Tôi từ Việt Nam, hoặc
tôi từ bang Ohio (nơi tôi đang sống), hoặc từ Mỹ.
Tình tự quyến luyến với quê hương, gốc gác, thay đổi theo thời gian và
cuộc sống của mỗi người. Có điều
là, khi sự di chuyển ngày càng dễ dàng (không những trong một quốc gia
mà còn quốc tế, thậm chí liên lục địa) thì cảm giác về “gốc gác” ngày
càng nhạt mờ.
Từ cá nhân đến quốc gia, và thế giới
Ghi lại vài cảm nghĩ trên đây không chỉ để chia sẻ sự nhớ nhung man mác,
lắm lúc nhói đau, của mỗi chúng ta lúc xa quê. Sự gắn bó đối với quê
hương là tự nhiên và cao quý, nhưng phải nhìn nhận rằng nó không chỉ thể
hiện qua những bài thơ, những bản nhạc, hay những câu chuyện kể với nhau
qua ly rượu, chén trà. Qua lịch sử và trong thực tế hiện tại, lắm khi nó
cũng là lực cản những biến đổi tích cực trong xã hội, là nguồn gốc nhiều
phong trào chính trị phản tiến bộ. Các hậu quả tiêu cực này có thể truy
về hai đặc tính liên hệ đến tình tự của cá nhân đối với cộng đồng gốc rễ
của mình.
Một là, hầu hết mọi quốc gia ngày nay đều là đa chủng tộc, một số được
hình thành sau Thế Chiến II do sự thỏa thuận (có phần áp đặt) giữa các
cường quốc thực dân cũ, do đó gốc rễ của một người không nhất thiết là
gốc rễ của người khác, dù cùng một quốc gia.
Hai là, vì nhiều lý do, mức độ lưu động của mỗi người giữa các vùng miền
và nghề nghiệp có khác nhau. Do đó, lợi ích của tiến bộ công nghệ, của
toàn cầu hóa (mà phần lớn bắt nguồn từ sự luân lưu dễ dàng của hàng hóa
lẫn lao động) là không đồng đều đối với những người cùng quốc gia, nói
chi đến giữa quốc gia này và quốc gia khác.
Phát hiện hai đặc tính gắn liền với “gốc rễ” ấy, nhiều nhà bình luận đã
đưa ra những giải thích rất thuyết phục đối với những sự kiện chấn động
thế giới trong vài năm gần đây.
(1) Đa số dân Anh muốn Anh rút ra khỏi Liên hiệp Châu Âu
Dù nước Anh là thành viên của Liên hiệp Châu Âu (EU) từ năm 1973, đã có
nhiều người Anh phản đối việc này ngay từ đầu, viện dẫn không ít lý do
-- từ lịch sử, văn hoá, đến kinh tế, chính trị.
Tuy nhiên, tin rằng những người phản đối là thiểu số, và để dứt
khoát khẳng định chính sách của Anh là kết chặt với cộng đồng châu Âu,
thủ tướng Anh David Cameron đã mở một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng
6-2016, đinh ninh rằng đa số đồng bào của ông sẽ bỏ phiếu ở lại EU.
Thật bất ngờ khi đa số phiếu (phải nói cho chính xác: không phải đa số
dân Anh, vì có nhiều người không bỏ phiếu) là muốn Anh rời khỏi EU!
Đã có rất nhiều giải thích kết quả này. Thú vị và sâu sắc nhất có lẽ là
nhận xét của David Goodhart, nhà bình luận người Anh. Theo Goodhart,
nước Anh ngày nay có hai nhóm ngày càng đối nghịch nhau.
Một nhóm là những người tốt nghiệp đại học, tư duy phóng khoáng,
dễ dàng tiến thân trong sự nghiệp, cũng như dễ dàng chuyển từ công
nghiệp này sang công nghiệp khác, rời vùng nọ sang vùng kia (kể cả ra
nước ngoài). Goodhart gọi
họ là “những người từ Bất-Cứ-Nơi-Nào" (“people from Anywhere”) vì họ hầu
như không còn cảm thấy bị buộc chặt vào một nơi nào.
Nhóm thứ hai là thành phần mà Goodhart gọi là “những người từ
Một-Nơi-Nào-Đó (“people from Somewhere). Nhóm này tương đối bảo thủ hơn nhóm thứ nhất, ý thức mạnh mẽ
hơn về căn tính quốc gia, và trân quý lối sống cỗ truyền mà họ cảm thấy
đang dần mất đi. Theo Goodhart, chính nhóm thứ hai đã bỏ những lá phiếu
quyết định nước Anh đòi “ly dị” với EU.
Điều đó cũng dễ hiểu, bởi lẽ đa số nhóm thứ nhất là thị dân, hưởng thụ
những thành quả của tiến bộ công nghệ, của viễn thông, của toàn cầu hóa.
Nhóm thứ hai (theo ước lượng của Goodhart thì không dưới 20% dân
Anh) thì trái lại, họ sống ở nông thôn, ở các thành phố nhỏ trong nội
địa. thu nhập không cao và bị chững lại, và cảm thấy bị “bỏ lại phía
sau”. Rồi gần đây, những người này lại thấy những nét văn hóa cộng đồng
thân thuộc của họ bị hăm dọa bởi những làn sóng di dân từ các văn hóa
rất khác.
(2) Trump đắc cử tổng thống Mỹ
Sau vụ Anh bỏ phiếu rời EU (sự kiện này thường được gọi là “Brexit”, gộp
hai chữ “British” và “exit”) vào mùa hè 2016 thì việc Donald Trump đắc
cử tổng thống Mỹ vào mùa thu tiếp đó, càng gây một sự ngạc nhiên hầu như
chưa từng có cho giới bình luận Tây phương, nếu không nói là đại đa số
người Mỹ. Tại sao một người không hề có kinh nghiệm chính trị, ăn nói bỗ
bã, lắm “thói hư tật xấu”, như Trump lại có thể thắng bà Hillary
Clinton, một chính trị gia lão luyện và khôn khéo?
Trong hàng nghìn bài báo, hàng chục quyển sách phân tích, giải thích kết
quả bất ngờ này, nhiều nhà bình luận đưa ra nhận xét tương tự như của
David Goodhart trên đây. Eugene Robinson của báo Washington Post viết:
Ngày nay, lằn ranh phân cách (trong xã hội Mỹ) có lẽ là giữa (một bên
là) những thành phố lớn và (bên kia là) những vùng xa ngoại ô và những
thị trấn nhỏ; giữa những người tốt nghiệp đại học và những người học vấn
kém hơn; giữa những người nhận lãnh lợi ích của toàn cầu hoá, và những
người không được những lợi ích ấy, và giữa những người da trắng hiện là
đa số và các nhóm dân thiểu số mà chỉ trong vài thập niên sắp đến sẽ trở
thành đa số. Kết quả các
cuộc thăm dò ý kiến đều cho thấy nhóm thứ nhất (tương tự như “những
người từ Bất-Cứ-Nơi-Nào” của Goodhart) chọn bà Clinton, trong lúc nhóm
thứ hai (tương tự như “những người từ Một-Nơi-Nào-Đó”) bỏ phiếu cho ông
Trump. Nói cách khác, theo ngôn ngữ của tôi trong bài này, những người
ít nặng tình với cộng đồng gốc rễ thì chọn bà Clinton, còn những người
nặng tình với gốc rễ, thậm chí bài ngoại, thì bảo thủ hơn, chọn ông
Trump.
Cần nhấn mạnh rằng tình tự cộng đồng của những người ở thôn quê, tỉnh
nhỏ, thu nhập không cao… chẳng phải hoàn toàn là do kỳ thị chủng tộc
hoặc giới tính (Hillary Clinton đã rất sai lầm khi ám chỉ như thế -- và
bị cho là miệt thị đông đảo cử tri -- trong một diễn văn tranh cử).
Sự quyến luyến với cộng đồng của những người này cũng có nhiều lý
do kinh tế rất cụ thể. Sống
ở tỉnh nhỏ, có thu nhập thấp… họ thường phải nương tựa vào gia đình, vào
láng giềng, trong sinh hoạt hàng ngày (như giữ con cho nhau, hoặc đưa
đón đi chợ, đi khám sức khoẻ, hay những việc vặt vãnh khác). Mạng lưới
gia đình, xóm giềng đối với họ là cần thiết, là rất quan trọng, vì lý do
kinh tế. Sự quyến luyến với
cộng đồng, gốc rễ của họ không chỉ là tình cảm trừu tượng.
(3) Phong trào chống
di dân từ nước ngoài và chia rẽ tôn giáo Ngoài hai sự kiện Brexit và Trump kể trên, vài diễn biến khác cũng được nhiều người cho là có nguyên nhân từ tâm thức “gốc gác”. Chẳng hạn như ở Trung Âu và Đông Âu gần đây có phong trào chống đối di dân từ Trung Đông và Bắc Phi. Tất nhiên, sự chống đối này cũng có lý do kỳ thị chủng tộc, nhưng cũng phải nhìn nhận rằng nó có phần phản ảnh sự “sợ hãi” của dân địa phương rằng văn hóa bản địa sẽ bị loãng đi, biến dạng, khi những người nhập cư đem đến cộng đồng quen thuộc của họ một nền văn hóa rất khác...
Trong một cuốn sách gần đây, giáo sư (cũng có thời là lãnh tụ một đảng
lớn ở Canada) Michael Ignatieff đã phân biệt “toàn cầu hóa kinh tế” và
“toàn cầu hóa đạo đức” (globalization of morals).
Theo Ignatieff, quả là toàn cầu
hóa kinh tế có làm cho các quốc gia gần nhau hơn, nhưng ông đặt câu hỏi:
Hình thức toàn cầu hóa (kinh tế) ấy có làm hệ đạo đức của các quốc gia
(ông gọi đó là “toàn cầu hóa đạo đức”) giống nhau hơn không?
Ignatieff cho rằng câu trả lời sẽ là “không”.
Theo ông, toàn cầu hoá không chỉ xoá bỏ biên giới hiện hữu, đem con
người gần nhau hơn, mà oái oăm thay, nó có thể tạo ra những biên giới
mới. Trong lúc
biên giới chính trị và kinh tế mờ nhạt đi thì biên giới tôn giáo và
chủng tộc lại sâu đậm hơn.
Lấy sự thảm sát dân Rohingya ở Myanmar để dẫn chứng, Ignatieff cho rằng
dân chủ không nhất thiết sẽ gia tăng sự tôn trọng nhân quyền: Chính
những người Myanmar từng tranh đấu cho dân chủ (dẫn đầu là bà Aung San
Suu Kyi) đã làm ngơ, nếu không ngầm ủng hộ sự tàn sát ấy. Tại sao như
thế? Theo Ignatieff,
Myanmar là một quốc gia đa chủng tộc và người dân Myanmar có những ý
thức khác nhau về “gốc rễ”, tùy theo họ là thuộc phe (đa số) theo đạo
Phật, hay phe thiểu số theo đạo Islam như người Rohingya.
Chính sự “mở cửa” (toàn cầu hóa) của Myanmar sau khi dân chủ được
tái lập đã phơi trần sự khác biệt này, đưa đến sự đàn áp có tính diệt
chủng như hiện nay.
Chúng ta phải làm gì?
Từ những nhận định đầu tiên về sự quý báu của tình cảm đối với gốc gác,
quê hương… đến nhận xét về những sự kiện gần đây liên hệ đến tác động
của tình cảm này đối với xã hội, quốc gia, và quan hệ quốc tế, thì phải
nhìn nhận rằng vấn đề “gốc rễ” không phải là đơn giản.
Nó có nhiều hậu quả phức tạp, bất ngờ, thậm chí tiêu cực.
Nó có thể gây ra những rạn nứt trong xã hội, tuỳ thuộc vào ảnh
hưởng chênh lệch của toàn cầu hoá, của di dân đối với những thành phần
xã hội và kinh tế, ở những vùng miền khác nhau.
Chúng ta cần nhìn nhận sự đan xen chặt chẽ giữa các xu hướng công nghệ
và xu hướng xã hội. Toàn
cầu hóa ưu đãi những thành phần dễ dàng chuyển từ nghề này sang nghề
khác. Nhìn từ một góc cạnh nào đó, sự mềm dẻo (trong di dân và nghề
nghiệp) là một dạng bất công bình thu nhập.
Những người thích ứng nhanh với công nghệ, dễ dàng di chuyển từ
vùng này đến vùng khác, đổi từ nghề này sang nghề khác, trong cùng một
quốc gia cũng như quốc tế, sẽ là những người có thu nhập gia tăng nhanh
chóng, nhưng lại là những người mà ý thức về nguồn gốc, về quê hương
ngày càng (tương đối) kém mặn nồng.
Ngược lại, những người không dễ di chuyển, khó thay đổi nghề
nghiệp, thì lại thường giữ được tình cảm gốc gác quê hương một cách
thiết tha hơn.
Nói cách khác, không phải ai cũng chấp nhận sự thay đổi nhanh chóng do
toàn cầu hoá đem lại. Sự
đối kháng không chỉ vì chủng tộc, vì văn hoá, mà còn vì kinh tế, như
trong trường hợp những người lo
ngại bị toàn cầu hoá bỏ lại phía sau. Muốn phát triển kinh tế, tiến bộ công nghiệp thì ta cần những người dễ
dàng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng, nhưng chúng ta cũng không
nên quên những người, vì lý do này hoặc lý do khác, khó thay đổi.
Sự chia rẽ giữa hai thành phần này, nếu ngày càng rộng hoặc không
giảm đi, sẽ phát sinh những biến động trong một quốc gia cũng như trong
quan hệ quốc tế.
Dù muốn dù không, thay đổi là tất yếu.
Những người chấp nhận và thích ứng với những thay đổi ấy sẽ khấm
khá, thịnh vượng hơn, còn những người không chấp nhận sẽ bị bỏ lại phía
sau. Nhưng phải nhìn nhận rằng trong
sự thay đổi ấy chúng ta sẽ mất đi một phần của chính chúng ta, những
tình cảm về gốc rễ, về đặc tính của cộng đồng.
Nhìn nhận sự mất mát (ít nhất cũng là mờ nhạt) ấy không có nghĩa là
chúng ta phải chống lại thay đổi. Nhưng mỗi chúng ta phải thích ứng theo
cách của từng người; cách thích ứng của người này không giống của người
khác, không chỉ vì sở thích mỗi người một khác mà còn vì hoàn cảnh của
mỗi cá nhân, tùy cách chúng ta được dạy dỗ, truyền thống gia đình của
chúng ta.
Mỗi quốc gia phải chấp nhận nhu cầu “nhìn ra ngoài”, nhưng cũng phải tôn
trọng những người gắn bó với làng mạc, đất đai.
Những người thụ hưởng lợi ích của toàn cầu hóa có trách nhiệm
chăm lo những người bị “bỏ lại phía sau”
Trách nhiệm ấy không chỉ là trách nhiệm đạo đức nhưng còn là nhu cầu
chính trị và kinh tế. Thiếu
nó, xáo trộn xã hội sẽ xảy ra. Các nhà lãnh đạo chính trị, những nhà văn
hóa cần ý thức những điều ấy trong những hoạch định chính sách cho quốc
gia, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại.
Trần Hữu Dũng
13/12/2017 |