Ngô
Kha, những Cuộc Nội Chiến ở Việt Nam, John C. Schafer
Bản dịch bài: Ngô Kha, Vietnam’s Civil
Wars, and the Need for Forgiveness
Người dịch: TQNam
Đôi lời giải thích của người dịch:
Trong bài hầu hết các danh từ riêng, tên tổ chức, tên báo, tạp chí, tựa
bài viết hay tựa sách Việt đều được tác giả viết hay ghi chú trong ngoặc
[] bằng chữ Việt đúng chánh tả; trong trường hợp nầy người dịch sẽ viết
chữ nghiêng.
Có một số trích dẫn được tác giả chép lại nguyên văn chữ Việt, khi nầy
người dịch sẽ đánh dấu thêm bằng (*) khi lần đầu xuất hiện. Có một số
trích dẫn (trực tiếp hay gián tiếp) được tác giả dịch ra tiếng Anh mà
người dịch có thể tìm được bản tiếng Việt trên internet thì người dịch
chép lại và đánh dấu thêm bằng (**).
***
Khi tôi dạy tiếng Anh tại Đà Nẵng và Huế ở
miền Trung Việt Nam vào cuối thập kỷ 1960 và đầu thập kỷ 1970, các học
viên của tôi đã giới thiệu cho tôi các bài hát của Trịnh Công Sơn và tôi
trở thành một người hâm mộ ông từ đó. Tôi
đã viết một số bài báo và hiện đang viết một cuốn sách về ông (1). Tuy
nhiên, trong bài này, tôi sẽ tập trung vào Ngô Kha, một trong những
người bạn tài năng của Trịnh Công Sơn (2). Trịnh Công Sơn, qua đời năm
2001,
có lẽ là nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất của Việt Nam. Ông và những người
bạn tài năng của ông thường được đề cập đến trong các sách báo.
Tuy nhiên thông tin về cuộc đời và tài nghệ của những người bạn này
không dễ tìm. Trong bài này, tôi sẽ cố gắng hiệu chỉnh sự mất cân đối
này bằng cách tập trung vào Ngô Kha, thế nhưng cái tên Trịnh Công Sơn
chắc chắn sẽ được đề cập đến bởi vì tôi tin rằng,
nếu muốn hiểu rõ Ngô Kha hơn,
ta cần phải tìm hiểu ông giống và khác người bạn nổi tiếng của ông như
thế nào.
Mặc dù tôi muốn hiệu chỉnh sự mất cân đối nói
trên, tôi vẫn do dự vì tôi ngại mở ra những vết thương cũ. Ngô Kha là
một nhà thơ, giáo viên, sỹ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và là
người lãnh đạo các cuộc biểu tình chống lại các chế độ quân sự ở Sài
Gòn. Năm 1973
ông bị một số người sát hại theo lệnh
của ông Liên Thành, Trưởng ty cảnh sát tỉnh Thừa Thiên-Huế (3). Ông Liên
Thành, hiện sống ở California, đã cáo buộc ba người bạn thân của Ngô Kha
là đã tham gia Mặt trận Giải phóng Dân tộc (NLF) năm 1966, đã
trở về Huế trong cuộc Tổng
tấn công Tết năm
1968 và đã giết hại thường dân Huế (5). Tôi ngại khi nói về Ngô Kha và
những người bạn của ông, tôi sẽ chuốc lấy thù địch của nhiều người Việt
Nam lưu vong vốn không thích nghe bất cứ điều gì ngoại trừ việc lên án
những người mà họ cảm thấy đã tiếp tay cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng
Hòa. Tôi cũng lo là những người ca tụng Ngô Kha ở Huế và những nơi khác,
nếu họ tình cờ thấy bài của tôi, có thể họ không muốn được nhắc lại cái
chết quá khủng khiếp của ông.
Những người này có thể nghĩ rằng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam đã vinh danh ông là liệt sĩ
(*) năm 1981, và ở Huế có một con đường, một trường tiểu học và một quỹ
học bổng cho học sinh nghèo mang tên Ngô Kha, như vậy đã đủ rồi. (6)
Điều thuyết phục tôi viết về Ngô Kha là cuộc bàn luận của Nguyễn Thanh
Việt về ký ức chiến tranh và đạo đức. "Làm sao chúng ta có thể, Nguyễn
Thanh Việt hỏi, khơi gợi quá khứ một cách công bằng cho những người bị
lãng quên, bị tống xuất, bị áp bức, những người đã chết, những bóng ma?"
(7) Ký ức đạo đức, ông lập luận, gợi lên sự hồi nhớ không chỉ của riêng
ta, mà còn của tất cả những ai đã chịu đựng khổ đau trong cuộc
chiến, nhưng thường thường các tượng đài chỉ vinh danh một phía. Ví dụ,
Đài Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam ở Washington D.C. tưởng nhớ năm
mươi tám ngàn người Mỹ. Ba triệu người Việt Nam, 400 ngàn người Lào, và
bảy trăm ngàn người Campuchia chết trong chiến tranh đã bị bỏ quên (8).
Ở Biên Hòa hiện có một nghĩa trang liệt sĩ rất to lớn được nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xây dựng và duy trì. Ở phía bên kia Quốc lộ 1A
có một nghĩa trang, hiện bị hư nát hoàn toàn với những ngôi mộ bị sụp
đổ, một thời đó là Nghĩa Trang
Quân Đội Việt Nam. Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam ở
Washington và sự lơ là đối với nghĩa trang VNCH, Nguyễn Thanh Việt nhận
định, là những ví dụ không chỉ về ký ức bất công mà còn là của sự
lãng quên bất công nữa (9).
Ký ức đạo đức, Nguyễn Thanh Việt nói, liên
quan đến một sự tha thứ mà Jacques Derrida gọi là "tha thứ thuần túy"
sinh ra do "nghịch lý tha thứ cái không thể tha thứ" (10). Nó liên quan
đến một "nhận thức đạo đức vừa nhân đạo vừa bất nhân đạo, dẫn đến một sự
hiểu biết phức tạp hơn về chúng ta, về câu hỏi làm người là gì, và chấp
nhận những việc mà phe ta, giòng giống ta và ngay cả chính chúng ta đã
làm." (11)
Chính Derrida gọi ý niệm của mình về sự
tha thứ thuần túy này là "quá đáng, phóng đại và điên rồ" và Nguyễn
Thanh Việt cũng thừa nhận như vậy, vì làm sao mà có thể tha thứ những
hành vi như ném bom rãi thảm, hay diệt chủng, vv...?(12)
Nhưng sau này ông quyết định là ông có thể "tha thứ, trên lý thuyết, cho
cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam - trong mọi phe phái và hình thái
- vì những gì họ đã làm trong
quá khứ."(13)
Nhưng ông "không thể tha thứ những gì họ đang làm trong hiện tại vì hiện
tại thì vẫn chưa kết thúc. Hiện tại, có lẽ, luôn luôn là không thể tha
thứ".(14)
Tôi viết về Ngô Kha trong tinh thần tha
thứ thuần túy này, vì tôi nhận thức rằng tôi đã làm việc ở Việt Nam
trong thời chiến tranh trong các chương trình do chính phủ Hoa Kỳ hỗ
trợ, có thể có người sẽ nghĩ rằng tôi thuộc vào những người cần được tha
thứ.(15)
Ngô
Kha:
Sỹ
quan quân đội, người thầy tài năng, người lãnh đạo biểu tình
Ngô Kha người gốc Huế, một thành phố trước năm
1954 khá truyền thống, biệt lập và bảo thủ hơn Sài Gòn hay thậm chí cả
Đà Nẵng. Nhưng sau Hiệp định Genève kết thúc Chiến tranh Đông Dương lần
thứ nhất năm 1954, Huế đã trở nên cở mở hơn khi giới sinh viên và giáo
viên du học về mang theo những ý tưởng mới cho thành phố. Huế trở thành
một đô thị học thuật khi Trường Đại học Huế thành lập năm 1957. Vào cùng
năm đó, Trường Mỹ thuật Huế
được thành lập. Năm 1958, một tạp chí học thuật mang tên "Đại
học: Tạp chí Nghiên cứu Đại học Huế" ra ấn bản đầu tiên. Một trí
thức Công giáo gốc miền Bắc tên là Nguyễn Văn Trung biên tập tạp chí,
ông vừa mới du học tại Bỉ trở về. Tạp chí này có nhiều bài viết về triết
học hiện sinh, một số bài do chính Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết. Cũng
có những bài viết về Sartre, Camus, Merleau-Ponty cùng các nhà văn, nhà
triết học phương Tây khác. Giới trí thức ở Huế lúc đó bắt đầu bị lôi
cuốn bởi nhiều thứ “-ism”
khác nhau từ các trường phái hiện đại
Âu-Mỹ - chủ nghĩa hiện sinh, trường phái lập thể, siêu thực. Chúng ta
thấy, ví dụ như, quan niệm hiện đại trong văn học Pháp trở thành siêu
thực trong những bài thơ
của Jacques Prévert, Paul Éluard, và Louis Aragon. Những nhà thơ này,
theo lời thầy giáo tiếng Pháp Bửu Ý (và cũng là bạn của Trịnh Công Sơn),
đã được Trịnh Công Sơn và nhóm bạn hữu của ông đọc, trong đó có Ngô Kha.
(16)
Hai cuộc Thế chiến đã phá tan niềm tin của người Âu
Mỹ, từ lâu họ vẫn tin rằng cuộc sống là mạch lạc và dễ hiểu, nay
họ viết những tác phẩm khó hiểu, khó giải đoán. Các bài hát của Trịnh
Công Sơn và những bài thơ của Ngô Kha cũng khó hiểu như vậy. Các nghệ sỹ
và nhà văn thường thường khó hiểu vì nhiều lý do khác nhau; đôi khi là
để né tránh kiểm duyệt, nhưng rõ ràng cả hai Trịnh Công Sơn và Ngô Kha
đều chịu ảnh hưởng của trường phái hiện đại Âu-Mỹ nói chung và trường
phái siêu thực nói riêng.
Ngô Kha sinh năm 1935 tại Huế và theo học
Trường Quốc học từ năm 1954 đến năm 1957.(17)
Sau
đó ông học tại khoa Sư phạm của Đại học Huế, nơi ông chuyên về văn
chương và văn hoá Việt Nam. Ngô Kha tốt nghiệp thủ khoa vào năm 1959.
Năm 1962, ông tốt nghiệp Cử nhân Luật Đại học Huế. Lúc học luật, ông còn
làm thơ và dạy Việt văn tại Trường Quốc học và ba trường trung học khác
ở Huế.
Các cựu học sinh của Ngô Kha và những người
khác cho biết ông là một vị thầy có sức thu hút chứ không phải là một
ông thầy nhốt mình trong giáo án (18). Ông ngâm thơ, nói chuyện thời sự
và khuyến khích học sinh tham gia vào các cuộc biểu tình chống lại các
chế độ quân sự của Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu. Ngô Kha là một nhà
tổ chức rất hiệu quả các cuộc biểu tình của sinh viên. Là một người
ngưỡng mộ Che Guevera, ông đội một chiếc beret màu đen lệch ngang tàng
một bên như nhà cách mạng Mỹ La tinh. Ông là một người thông minh, một
nhà thơ gây xúc động và là một diễn giả hùng biện có lời nói đi đôi với
hành động. Các học sinh của Ngô Kha đã biểu thị lòng yêu mến ông bằng
cách xuống đường đòi phóng thích ông sau khi ông bị bắt vào đầu năm
1972, một sự kiện tôi sẽ mô tả trong phần sau.
(20)
Hình 2: Ngô Kha (19)
Năm 1962 ông bị gọi nhập ngũ tại Thủ Đức
(gần
Sài Gòn)
để theo học trường sĩ
quan trừ bị. Khi tốt nghiệp, ông trở thành sĩ quan trợ lý báo chí của
Phòng tham mưu Vùng I Chiến thuật ở Đà Nẵng. Những người viết về Ngô Kha
đã không đồng ý với nhau về việc ai đã cho ông công việc tương đối an
toàn như vậy. Nhà thơ Ngô Minh nói đó là người chị của Ngô Kha, Ngô Thị
Huân, một y tá của quân đội Sài Gòn (21). Nguyễn Đắc Xuân nói rằng đó là
một người anh (*), tướng Ngô
Du, người kiếm cho ông công việc an toàn này để ông "khỏi phải cầm súng
ra trận (22)". Cụm từ người anh
là mơ hồ: có thể được coi là anh trai [anh
ruột (*)] hoặc anh em họ [anh
họ (*)]. Nguyễn Đắc Xuân phải nói là anh họ. Mặc dù Ngô Kha có một
người anh tên là Ngô Du, ông nầy không phải là một viên tướng. Nguyễn
Duy Hiền liệt kê tất cả sáu anh chị em ruột của Ngô Kha và nói về người
anh trai của mình, Ngô Du: "Ngô Du (đã chết) không phải là tướng Ngô Dzu
của quân đội Sài Gòn như một số tài liệu ghi nhầm (23)". Người anh Ngô
Du của Ngô Kha là phó quận trưởng quận Hương Trà ở Huế, sau đó bị giết
trong cuộc tấn công Tết Mậu thân. Để chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân tin
đó là anh họ, chứ không phải anh ruột, là người đã che chở Ngô Kha, tôi
nhờ anh rể tôi đang sống ở Huế, liên lạc với nhà sử học. Ông khẳng định
rằng "người anh" (**) có ý
nói là anh họ (24).
Người anh họ nầy của Ngô Kha sau này trở thành
một vị tướng quyền lực. Tên ông đôi khi được viết là "Ngô Dzu", chứ
không phải "Ngô Du", vì người ngoại quốc có thể phát âm tên cúng cơm này
như từ "do" trong tiếng Anh trong khi nó phải được phát âm như từ "zoo"
(phương ngữ Bắc) hay "you" (phương ngữ nam). Trong cuộc tấn công Mùa hè
năm 1972 của Bắc Việt, Ngô Dzu là Tư lệnh Vùng II chiến thuật của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa và chỉ huy cùng với vị cố vấn nổi tiếng Hoa Kỳ,
John Paul Vann, trong trận đánh Kontum và vùng cao nguyên miền
Trung. Dù
vậy, vào đầu thập kỷ 1960, ông chỉ được
thăng hàm tướng và không được bổ nhiệm Vùng I chiến thuật bao gồm Huế và
Đà Nẵng. Tuy nhiên, có thể đúng ông là người bảo vệ Ngô Kha. Khoảng năm
1964, Ngô Kha được biệt phái
(*) và được phép trở về dạy học ở Huế, ở đó ông tiếp tục hoạt động trong
phong trào đấu tranh (25). Ngô Kha đã thách thức sự kiên nhẫn của ông
anh họ Ngô Dzu này. Cả Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều cho
rằng Ngô Kha cung cấp tin tức cho những người trong phong trào đấu tranh
bằng những tình báo quân sự về kế hoạch của QLVNCH khi ông là tùy viên
báo chí trong QLVNCH lẫn khi sau đó ông được biệt phái về dạy học tại
Huế. Tôi sẽ giải thích thông tin nhận được từ Ngô Kha có thể đã giúp
Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân tránh bị bắt giam (26).
Tôi đã nói Ngô Kha là một nhà tổ chức hiệu quả
các cuộc biểu tình của sinh viên ở Huế, nhưng người dân Huế, đặc biệt là
giới Phật tử, vốn đã phẩn uất về nhiều điều, do đó hầu như không quá khó
để huy động họ. Về mặt trí thức Huế có nhiều dấu hiệu đang trở thành một
thành phố sôi động, nhưng về mặt chính trị Huế đang bị rối loạn. Từ năm
1955 đến năm
1963 Tổng thống Ngô Đình Diệm cai trị
đất nước, một người Công giáo nhiệt thành với sự trợ giúp của ba người
em, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Thục, và Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Nhu là cố vấn
của Ngô Đình Diệm và cũng là người đứng đầu cơ quan mật vụ và là người
khởi xướng Đảng Cần Lao (*).
Ngô Đình Cẩn không có chức vụ chính thức nhưng là người cai quản trên
thực tế một khu vực trải dài từ Phan Thiết đến vĩ tuyến 17. Ngô Đình Cẩn
đã cai trị một vùng, bao gồm cả Huế, như một lãnh chúa. Ngô Đình Thục,
người anh cả của Tổng thống Ngô Đình Diệm, là một linh mục Công giáo.
Vào năm 1961 ông trở thành Tổng giám mục miền
Trung Việt Nam. Viện trưởng trường Đại
học Huế, Cao Văn Luận, cũng là một linh mục Công giáo. Kết quả là sự
hiện diện lấn át hẳn của Công giáo trong một vùng mà hầu hết người dân
là Phật tử. Dân Huế phẩn nộ trước thực tế là Tổng thống Ngô Đình Diệm đã
duy trì một nghị định của Pháp (Dụ số
10) vốn xếp Phật giáo vào một loại hội
đoàn chứ không phải là một tôn giáo (27). Và họ phẩn nộ khi phải hát,
tại lễ chào cờ và rạp chiếu phim, một bài hát mang tên
Suy Tôn Ngô Tổng Thống (*),
trong đó có những câu sau:
Toàn
dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô
Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn
dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin
thượng đế ban phước lành cho người
(**)
Phong trào đấu tranh bước vào giai đoạn tột
đỉnh vào năm
1966. Chính sách của Hoa Kỳ đã thay
đổi. Năm
1963, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn Tổng
thống Ngô Đình Diệm chấm dứt việc đàn áp Phật tử. Tuy nhiên, vào năm
1966, họ cũng muốn một tướng lĩnh người
Việt ở Vùng I Chiến thuật sẵn sàng đè bẹp Phong trào đấu tranh Phật giáo
bởi vì nó đã gây bất ổn cho chế độ quân sự Sài Gòn. Điều khiêu khích
những người biểu tình hồi năm
1966 là quyết định của Thủ tướng Nguyễn
Cao Kỳ, ông tuyên bố vào ngày
10 tháng Ba cách chức Tướng Nguyễn
Chánh Thi, Tư lệnh quân đội Vùng I Chiến thuật, một khu vực bao gồm 5
tỉnh cực bắc của miền Nam Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ cách chức một ông
tướng, một Phật tử người Huế, bởi vì ông Thi rất được lòng dân trong
vùng và mở rộng mối quan hệ tốt đẹp với Thích Trí Quang, nhà lãnh đạo
Phong trào đấu tranh Phật giáo. Vì Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ sợ phong trào
đấu tranh này và vì không tin tưởng vào sự trung thành của các chỉ huy
QLVNCH trong vùng cùng quân lính của họ, vào ngày 4 tháng Tư, ông đã
dùng máy bay của người Mỹ chở 1900 quân thiện chiến trung thành với
chính quyền Sài Gòn, cùng với xe tăng và thiết vận xa ra sân bay Đà Nẵng
(29).
Cái mà Stanley Karnow gọi là "cuộc nội chiến
trong một cuộc nội chiến" đã diễn ra: sự đối đầu giữa các đơn vị khác
nhau của quân đội Nam Việt Nam (30). Binh lính QLVNCH đóng quân ở Huế và
Đà Nẵng vẫn trung thành với các chỉ huy sở tại và đánh nhau với quân của
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ và người Mỹ từ các vùng khác bay đến. Nói cách
khác, quân sở tại hợp lực với Phong trào đấu tranh Phật giáo. Theo Tướng
Lewis Walt, Chỉ huy Lữ đoàn III Thủy quân
lục chiến, đóng tại Đà Nẵng, "Nó cứ như thể là California, với Los
Angeles và San Francisco, tách ly khỏi Hoa Kỳ" (31).
Tại Đà Nẵng, các cuộc xung đột dữ dội xảy ra trong tháng năm khi
lực lượng nổi dậy ẩn náu ở ba ngôi chùa ở phía nam thành phố. Các nhà sư
đe doạ tự thiêu nếu các lực lượng ủng hộ Nguyễn Cao Kỳ tấn công. Nhiều
phụ nữ và trẻ em bị thương trong cuộc giao chiến. Neil Sheehan viết trên
tờ The New York Times rằng sau cuộc chạm trán nầy "hơn
40 thi thể đắp cờ Phật giáo, nằm ở tiền
sảnh từ đường chùa Tĩnh Hội
(*) (32). Tuy nhiên vào ngày 23 tháng Năm, lực lượng nổi dậy ở Đà Nẵng
phải đầu hàng và cuộc đánh nhau chuyển ra Huế.
Khi cuộc nội chiến trong một cuộc nội chiến nổ ra, Ngô Kha là thành viên
chính của một nhóm thuộc QLVNCH tại Huế có mục đích chống lại lực lượng
QLVNCH trung thành với Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu. (33). Đơn vị
của Ngô Kha mang tên là Chiến
đoàn Nguyễn Đại Thức (*) để tưởng niệm một sĩ quan QLVNCH bị giết
hôm 15 tháng 5 khi ông nầy cố gắng hạ sát một vị tướng QLVNCH tên Huỳnh
Văn Cao, tân Tư lệnh quân đoàn I. Ngô Kha và những người khác trong
phong trào đấu tranh coi Nguyễn Đại Thức như là một vị thánh tử đạo chết
cho đại nghĩa.
Nguyễn Đắc Xuân cho biết, Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức của Ngô Kha, với
các thành viên quấn khăn quàng cổ màu tím, đã hoạt động anh dũng và làm
chậm bước tiến của quân đội Nguyễn Cao Kỳ vào Huế (34). Hoàng Phủ Ngọc
Tường kể rằng Ngô Kha nói với mình là ông cố gắng trì hoãn sự tiến quân
vào Huế của quân đội Nguyễn Cao Kỳ để bạn có thì giờ rút lui vào núi.
Thông tin này do Trịnh thị Vĩnh Thúy, em gái của Trịnh Công Sơn, chuyển
lại cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, một năm sau cô trở thành vợ của Ngô Kha.
Ngô Kha cảnh báo bạn của ông rằng ngay khi quân đội của Nguyễn Cao Kỳ
vào Huế, họ sẽ truy lùng những người trong phong trào đấu tranh mà họ
cho là nguy hiểm. Tôi nghi ngờ chiến đoàn này có đủ sức để chống lại xe
tăng và thiết giáp, nhưng cả hai Hoàng Phủ Ngọc Tường và người em là
Hoàng Phủ Ngọc Phan, cùng với Nguyễn Đắc Xuân, đã chạy khỏi Huế và thoát
khỏi bị bắt, điều này làm cho Trưởng ty cảnh sát Liên Thành tiếc vô
cùng. Ông nói ông đã thất bại trong việc bắt giữ ba người này vì ông là
người mới làm công tác tình báo và vì vậy thiếu năng lực và kinh nghiệm.
Ông Thành cho biết ông chưa có đủ độ "lạnh
lùng" (*) mà một sĩ quan tình báo cần có để làm công việc của mình.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng là thầy giáo của ông, Liên Thành nói, ông
đã học được từ cha mình và từ văn hoá chung của Việt Nam dạy rằng ai
cũng phải kính trọng thầy giáo của mình. Không muốn tự tay bắt thầy giáo
cũ, ông đã giao nhiệm vụ bắt Hoàng Phủ Ngọc Tường và bạn bè của ông nầy
cho một người phụ tá. Để cho ba người nầy trốn thoát, Liên thành nói là
“một sai lầm rất lớn, một điều mà tôi hối tiếc suốt đời” (37). Do sự đối
xử của ông sau này đối với Ngô Kha, một người cũng là thầy giáo của Liên
Thành, chúng ta biết rằng sau này vị Trưởng ty cảnh sát đã có đủ độ lạnh
lùng để đối xử tàn nhẫn ngay cả với một người thầy giáo cũ (38). Có thể
Ngô Kha không nhận được sự thương xót của Liên Thành vì ông là bạn thân
của ba người mà ông đã để thoát đi. Nhưng trong cuốn sách của mình Liên
Thành không che giấu chút nào ý muốn trả thù của mình với bất kỳ ai có
liên quan đến những người cộng sản nằm vùng, dù ít mấy đi nữa.
Không rõ Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức đã trì hoãn việc tiến quân của
Nguyễn Cao Kỳ vào Huế được bao lâu. Điều chắc chắn là hành động của Ngô
Kha năm 1966 đã làm ông bị bắt và bị tống vào tù ngoài đảo Phú Quốc.
Nguyễn Đắc Xuân nói rằng nếu không có sự can thiệp của Tướng Dzu thì Ngô
Kha có thể đã nhận án tử hình (39). Khoản thời gian chính xác Ngô Kha bị
cầm tù ở đảo Phú Quốc cũng chẳng rõ ràng. Chúng ta biết là ông bị bỏ tù
vào tháng 5 hay tháng 6 năm 1966, và ông đã lập gia đình ở Huế vào mùa
hè năm 1967, có nghĩa là ông đã không thể ở tù lâu hơn một năm.
Vào ngày 26 tháng Năm năm 1966, sau tang lễ công khai của Nguyễn Đại
Thức, các cuộc biểu tình lên cao mạnh mẽ tại Huế. Một nhóm học sinh sinh
viên, phớt lờ trước những lời yêu cầu khẩn thiết tránh bạo lực của Thích
Trí Quang, đã đốt phá Phòng Thông tin và Thư viện Hoa Kỳ (40). Một vài
ngày sau, họ đã đập phá Lãnh sự quán Hoa Kỳ (41). Theo đề nghị của Thích
Trí Quang, người dân Huế đã đặt bàn thờ gia tộc ra đường phố để ngăn
chặn bước tiến của đoàn quân Nguyễn Cao Kỳ (42). Đây chỉ là một hành
động mang tính biểu tượng. Đoàn quân của Nguyễn Cao Kỳ đã giải tán họ và
cuối cùng giành được quyền kiểm soát thành phố vào ngày 19 tháng 6.
Các
hoạt động của Ngô Kha trước khi chết vào năm 1973
Sau khi được thả ra khỏi tù ở Phú Quốc, Ngô Kha trở về Huế và tiếp tục
dạy học tại trường Quốc học. Cuối thập kỷ 1960 và đầu thập kỷ 1970 là
những năm quan trọng cả về mặt chính trị lẫn nghệ thuật đối với Ngô Kha.
Trong thời gian này, ông và Trịnh Công Sơn đã dành rất nhiều thời gian
cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau bằng nhiều cách. Vào mùa hè 1967, Ngô Kha
cưới Trịnh thị Vĩnh Thúy, em gái của Trịnh Công Sơn (43). Cuộc hôn nhân
không dài lâu, nhưng nó cũng thể hiện một mối liên hệ khác giữa hai
người (44). Ngày 31 tháng Giêng 1968, cuộc tổng tấn công Tết bắt đầu và
Huế bị quân cộng sản chiếm giữ trong khoảng ba tuần. Sau đó, Hòa đàm
Paris khai mạc vào tháng 5 năm 1968, và mặc dù phải mất năm năm một thỏa
thuận mới được ký kết, việc một cuộc đàm phán có thể xảy ra mang lại hy
vọng cho người Việt khắp nơi.
Vào năm 1969 Ngô Kha đã viết hai bài trường ca: "Ngụ
ngôn của người đãng trí" (788 dòng) và "Trường
ca hòa bình" (1.004 dòng). Các tác giả Việt Nam mô tả bài thơ đầu là
siêu thực và khó hiểu. Đỗ Lai Thúy nói bài này "là một mê cung siêu
thực, mộng mị giấc mơ" (**) (45). Ngô Minh nói bài thơ thể hiện sự cô
đơn của Ngô Kha và phản ứng của ông đối với nỗi kinh hoàng của chiến
tranh (46)". Bài Trường ca Hòa
bình ít khó hiểu hơn. Nhiều đoạn trong bài tương tự những bài hát
của Trịnh Công Sơn trong tập Kinh
Việt Nam và Ta phải thấy mặt
trời (47). Tôi sẽ mô tả những khía cạnh tương tự nầy trong phần "Ngô
Kha, Trịnh Công Sơn, và Nội chiến”.
Những người đóng góp cho hai cuốn sách tôn vinh Ngô Kha, một được xuất
bản hồi năm 2005, cuốn kia vào năm 2013, cho rằng sau khi viết "Ngụ
ngôn của người đãng trí", Ngô Kha đã từ bỏ trường phái siêu thực và
cũng từ bỏ luôn lập trường trung lập và bắt đầu ủng hộ hoàn toàn lập
trường của MTDTGPMN (48). Chắc chắn ông đã hoạt động tích cực trong
phong trào đấu tranh. Vào năm 1970 ông là một trong sáu người, trong đó
có Trịnh Công Sơn, thành lập nhóm
Tự Quyết , một nhóm trí thức thiên tả. Ngô Kha cũng được bầu làm chủ
tịch của một tổ chức khác, Mặt
trận Văn hoá Dân tộc miền Trung. Cả hai tổ chức xuất bản các tạp chí
và tổ chức biểu tình.
Vào đầu 1972 Ngô Kha bị bắt, ta có thể đoán là vì các hoạt động chống
chính phủ, và bị xét xử tại một tòa án binh ở Đà Nẵng. Ông được thả, bạn
bè và những người ủng hộ ông nói, vì ông không phạm tội và cũng vì học
sinh sinh viên ở Huế và các nơi khác ở miền Nam Việt Nam đã xuống đường
để phản đối việc bắt giữ ông và đòi thả ông (49). Nguyễn Duy Hiền nói có
những cuộc biểu tình của học sinh sinh viên tại Huế vào các ngày 07, 10,
và 14 tháng 3 (50). Mẹ của Ngô Kha, bà Cao Thị Uẩn, trong một bức thư
viết vào năm 1974 gửi cho Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đòi hỏi cho biết
điều gì đã xảy ra với con trai bà. Bà nhắc lại lần trước con mình bị bắt
rồi nhanh chóng được thả ra, như vậy có nghĩa là lần này cũng vậy, con
bà bị cảnh sát Huế bắt mà không phạm tội nào cả. Đây là những gì bà
viết:
“Trong niên học 1971-1972, con tôi bị bắt một
lần, bị đưa ra Tòa án Quân sự Đà Nẵng nhưng được tha bổng. Trong lần
này, việc bắt giữ con tôi đã gây phản ứng trong giới học sinh vì tình
nghĩa thầy trò học sinh trường Quốc học, trường Nguyễn Du, và các trường
khác đã biểu tình phản đối chính quyền về việc bắt giữ con tôi. Chính vì
thế, dù đã được Tòa án Quân sự xét xử vô tội, tha bổng, con tôi bị chính
quyền địa phương để tâm thù ghét" (**) (51).
Cán bộ cộng sản rõ ràng đã cố gắng điều khiển và chỉ đạo phong trào đấu
tranh ở Huế. Cả Nguyễn Đắc Xuân lẫn Nguyễn Duy Hiền đều nói rằng
Mặt trận Dân tộc Văn hoá miền
Trung, mà Ngô Kha là chủ tịch, được
Thành Ủy Huế chỉ đạo (52).
Nói cách khác, điều nầy có thể được coi là một tổ chức bình phong hoạt
động cho MTDTGPMNVN. Văn phòng không chính thức của tổ chức này được đặt
tại vị trí thuận lợi trong trụ sở của Tổng hội sinh viên tại 22 Đường
Trương Định ở Huế (53). Mặc dù hầu hết cán bộ đã bị thu hồi ra khỏi Huế
sau Tết năm 1968, giới lãnh đạo MTDTGPMNVN đã để lại những người có cảm
tình để có thể hoạt động công khai. Một trong số đó, một người tên Hoàng
Hòa, một sinh viên Huế sắp sửa thành thầy giáo toán, giải thích rằng
những người của MT đã chỉ đạo ông tổ chức các hoạt động học sinh, đặc
biệt là các buổi trình diễn văn hoá bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh
và chống đối chế độ của Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ (54)". Ông nói
rằng Ngô Kha ngâm thơ và Trịnh Công Sơn hát trong các buổi trình diễn
này. Làm việc bí mật như ông Hoàng Hòa làm là một công việc nguy hiểm.
Vào cuối 1968 Hoàng Hòa bị một người liên lạc phản bội, người nầy đã báo
cáo ông cho cảnh sát. Ông đã mất bảy năm trong nhà tù khét tiếng tại đảo
Côn Sơn (55).
Nhưng Hoàng Hòa sống. Ngô Kha thì không. Vào ngày 30 tháng Giêng, 1973,
ba ngày sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết, Ngô Kha đã bị bắt
và bị đánh chết bằng búa bởi những người thừa lệnh của Liên Thành,
Trưởng ty cảnh sát Huế. Ban đầu xác ông bị vùi bên con đường đi ra bãi
biển Thuận An, nhưng sau đó Liên Thành sợ xác bị phát hiện, đã ra lệnh
cho hốt xác lên và chôn tại An Cựu, một ngôi làng phía nam Huế. Chuyện
này đã xảy ra mà không mấy ai được biết trong nhiều năm, nhưng rồi thông
tin được tích lũy dần. Vào năm 2005 Nguyễn Duy Hiền trình bày các sự
kiện chính trong bài "Ngô Kha ngụ
ngôn" (56) và bốn năm sau đó Nguyễn Đắc Xuân viết một bài mô tả đầy
đủ hơn về cái chết, đăng trực tuyến lần đầu tiên vào năm 2009 và sau đó
trong cuốn Ngô Kha hành trình
(57). Mô tả của Nguyễn Ðắc Xuân dựa trên các thông tin thu thập được từ
những người quen biết Liên Thành, trưởng ty cảnh sát, và những người
thân của Ngô Kha, trong đó có một người tên là Phạm Bá Nhạc, phó cơ quan
mật vụ ở Huế, mẹ kế của người này là chị gái của Ngô Kha (58). Mô tả của
Nguyễn Đắc Xuân rất chi tiết. Ví dụ, ông nêu tên hai nhân viên mật vụ,
những người theo lệnh của Liên Thành đã bắt Ngô Kha ở nhà của bà góa phụ
Ngô Du, vợ của anh trai Ngô Kha (42 Bạch Đằng, Huế) (59).
Hình 3: Thiếu tá Liên Thành (60)
Phần mô tả chi tiết vụ giết Ngô Kha của tôi chủ yếu dựa vào mô tả của
Nguyễn Đắc Xuân. Tôi trình bày sự việc ra đây vì Nguyễn Đắc Xuân trích
dẫn lại từ các nhân chứng vụ bắt giữ Ngô Kha và cũng bởi không một ai,
theo hiểu biết của tôi, chính thức phản đối tính xác thực trong lời
tường thuật nầy của Nguyễn đắc Xuân. Đối với tôi, nó phản ánh được sự
thật. Việc Ngô Kha bị bắt rất rõ ràng. Ông bị đưa ra khỏi nhà giữa ban
ngày trước sự hiện diện của người chị dâu của Ngô Kha. Việc ông bị bắt
cũng được chứng kiến bởi một người khác tên Nhất Huy, bạn của Ngô Kha,
người nầy tình cờ có mặt lúc Ngô Kha bị bắt. Ông nầy thấy Ngô Kha bị đưa
đi trên một chiếc xe gắn máy Honda, kẹp giữa hai người đàn ông to lớn
không thuộc nhóm bạn bè của Ngô Kha (61). Nguyễn Đắc Xuân cũng cung cấp
chi tiết liên quan tới việc cải tán xác Ngô Kha mà ông biết được theo
lời kể của các thành viên trong gia đình. Ông giải thích rằng Phạm Bá
Nhạc, có mẹ kế là chị gái của Ngô Kha, đã xin Liên Thành cho ông lấy thi
thể trần truồng của Ngô Kha, sau khi đào lên từ nơi chôn vùi đầu tiên,
được đặt tại trung tâm thẩm vấn của cảnh sát và sau đó chôn Ngô Kha
trong một quan tài thích hợp ở một vùng thuộc Huế gọi là An Cựu. Liên
Thành cho phép Phạm Bá Nhạc nhưng nói với ông này rằng ông ta sẽ bị giết
ngay lập tức nếu tin này bị tiết lộ (62). Phạm Bá Nhạc là một cảnh sát
viên CPVN, sau 1975 có một thời gian bị giam trong tù cải tạo của cộng
sản và sau đó được phép rời khỏi đất nước theo một chương trình của Ủy
ban Cao uỷ về Người tị nạn Liên Hiệp Quốc được gọi là HO (Humanitarian
Operation), một chương trình thuộc Chương trình ra đi có trật tự dành
cho người Việt nào đã ở trong trại cải tạo từ ba năm trở lên. Nguyễn Đắc
Xuân lẽ tất nhiên, có thể đã hoàn toàn tô vẽ cái chết của Ngô Kha,
nhưng, theo tôi nghĩ, chắc không phải vậy.
Những
điều khả tín
Câu chuyện của Nguyễn Đắc Xuân có thể phản ánh
đúng sự thật, nhưng sự khả tín là một vấn đề cần phải được thảo luận.
Một số người sống ở Huế và nhiều người sống ở hải ngoại không thích hay
không tin Nguyễn Đắc Xuân hay người bạn Hoàng Phủ Ngọc Tường của ông.
Nguyễn Đắc Xuân bị buộc tội chủ tọa tòa án nhân dân và phán định ai sẽ
bị án tử khi ông trở về Huế cùng những người lính cộng sản trong cuộc
Công kích Tết 1968. Nguyễn Đắc Xuân thừa nhận ông có mặt ở thành phố
trong trận đánh ở Huế, nhưng nói khi đó ông chỉ mới vào MTDTGP một năm
rưỡi và hoàn toàn không có quyền quyết định nên giết ai (63). Nguyễn Đắc
Xuân từng hoạt động tích cực trong phong trào đấu tranh Phật giáo hồi
năm 1966 và rời Huế để gia nhập MTDTPG vào cuối tháng 6
năm 1966, khi ông biết được mình sẽ bị
cảnh sát bắt (64). Ông nói tin đồn rằng ông là người thi hành án tử hình
trong suốt thời kỳ Công kích Tết bắt đầu sau khi cuốn sách của Nhã Ca,
Giải khăn Sô cho Huế, xuất
bản năm
1969 (65). Nhã Ca có mặt ở Huế khi cuộc
tấn công xảy ra, và một nhân vật quan trọng trong cuốn sách của bà là
một người tên Đắc. Trong một mẫu chuyện tên Đắc này đe dọa giết một
người đàn ông tên là Trần Mậu Tý, người này sau đó bị giết nhưng không
do Đắc giết. Nhân vật tên Đắc này không được mô tả là chủ tọa tòa án
nhân dân. Tên này được nêu ra trong các cuộc đối thoại giữa các nhân vật
trong cuốn sách, những người nầy biết Đắc trước khi ông rời Huế để gia
nhập MTDTGP năm 1966. Họ bày tỏ hy vọng là Đắc sẽ xác nhận họ với cấp
trên và như vậy họ sẽ khỏi bị giết. Người Việt Nam không ai gọi người
khác bằng chữ lót, và Nguyễn Đắc Xuân nhất định rằng ông không phải là
nhân vật mà Nhã Ca gọi Đắc (66).
Song, rõ ràng là Nhã Ca muốn nói đến Nguyễn Đắc Xuân khi viết về nhân
vật Đắc. Trên một trang trong sách, bà gọi nhầm nhân vật nầy là Xuân khi
rõ ràng bà có ý nói tới nhân vật Đắc (67). Trong một bài báo có tựa đề "Hậu
quả của ‘cái chết’ của tôi", Nguyễn Đắc Xuân nói là một lần ông tình
cờ chạm trán với Nhã Ca ở thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975. Ông đã hỏi
bà tại sao bà đặt tên nhân vật này là Đắc (chữ lót của tên ông)(68). Nhã
Ca nói là bà không quen với một người lính giải phóng miền Bắc nào và bà
cần một người để làm mẩu cho nhân vật của bà, vì vậy bà đã chọn ông và
đặt tên cho nhân vật là Đắc. Bà đã hư cấu câu chuyện về ông, ông kể lại,
vì bà muốn làm cho câu chuyện thêm phần lý thú. Bà nói bà nghe là ông đã
bị giết và vì vậy không ngại ngùng thêm thắt chi tiết (69). Nguyễn Đắc
Xuân nói rằng ông không thể nhớ chính xác năm nào ông gặp Nhã Ca, nhưng
nói là trước năm 1980. Năm đó Nhã Ca vừa mới được thả ra khỏi trại cải
tạo và chồng bà, nhà thơ Trần Dạ Từ, vẫn còn bị giam cầm. Họ có sáu đứa
con nhỏ và Nhã Ca đang bán dạo bánh bông lan bên đường phố để nuôi sống
gia đình. Có thể bà đã nói thêm thắt nhân vật Đắc của bà là để tránh gây
thù oán với một người có thể giúp đỡ hay làm tổn thương bà và gia đình
bà (70).
Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, người buộc tội Nguyễn Đắc Xuân
và Hoàng Phủ Ngọc Tường mạnh dạnh và dai dẳng nhất là Liên Thành, trưởng
ty cảnh sát, người mà Nguyễn Đắc Xuân nói là đã ra lệnh giết Ngô Kha một
cách tàn bạo. Theo Liên Thành, cả hai Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường đều là thành viên của Lực
lượng An ninh Bảo vệ Khu Phố, một lực lượng mà ông nói là "gây chết
chóc và đau thương cho dân chúng
Huế trong hai mươi hai ngày" trong cuộc Công kích Tết (**) ( (71). Liên
Thành nói rằng Nguyễn Đắc Xuân là trưởng nhóm này và quy ông là "Tên đồ
tể số một thời gian Tết 1968" (72). Liên Thành tuyên bố mà không đưa ra
chứng cớ rằng trong số những hành vi khủng khiếp mà nhóm này đã vi phạm
là việc bắt giữ và giết chết bác sỹ Horst Gunther Kranick và vợ ông,
cũng như hai bác sỹ Đức khác, Bác sỹ Raimund Discher và Bác Sỹ Alois
Altekoester (73).
Liên Thành cáo buộc Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa các Toà án nhân dân ở
khu vực Gia Hội, Huế và gây ra cái chết cho 204 người dân. Những người
bị Tường buộc tội, Liên Thành cho biết, đã bị chôn sống (74). Alje
Vennema, một tình nguyện viên y tế người Hà Lan ở Huế năm 1968, nói rằng
cả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đều ở Huế và cả hai đều là
chủ tọa tòa án nhân dân (75). Tuy nhiên, Vennema chẳng hề chứng kiến một
tòa án nhân dân nào. Ông không giải thích rõ ràng ai đã nói với ông về
hai người này, nhưng nói nguồn tin của ông là do một cậu bé mười hai
tuổi tên là Lương, em họ của một phụ nữ trẻ tên Kim, một thành viên của
gia đình họ Nguyễn (76). Báo cáo của Vennema khác với Liên Thành.
Vennema nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa một phiên tòa được tổ chức
tại một chủng viện nhỏ tại "Trung
tâm Sinh viên St. Xavier" (**) nằm về phía Nam của sông Hương (77).
Còn Liên Thành thì nói tòa án mà Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa là ở Gia
Hội, một quận nằm ở phía bắc của sông Hương (78). Nguyễn Đắc Xuân và
Hoàng Phủ Ngọc Phan (em của Hoàng Phủ Ngọc Tường) cũng đều có mặt, Liên
Thành nói (79).
Song, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng ông không có mặt ở Huế trong
cuộc Công kích Tết, giải thích rằng ông đã rời Huế tham gia MTDTGP vào
mùa hè 1966 và không trở lại Huế cho đến năm 1975 (80). Nhà thơ Ngô
Minh, một cựu binh của quân đội Bắc Việt ở Quảng Bình, hiện đang sống ở
Huế, nhấn mạnh rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đang ở tại sở
Chỉ huy tiền phương của
MTDTGP trên núi Kim Phụng, phía tây nam của Huế, trong cuộc Công kích
Tết. Ông nói rằng sở dĩ dân chúng Huế đổ lỗi các vụ hành quyết cho Hoàng
Phủ Ngọc Tường vì trong thời gian ở trên núi ông đã thu âm
Lời hiệu triệu kêu gọi dân
chúng Huế nổi dậy và gia nhập lực lượng cách mạng. Lời ghi âm này đã
được phát thanh ở khắp Huế khi cuộc tấn công bắt đầu (81).
Trong phần giới thiệu bản dịch cuốn
Giải khăn số cho Huế của
mình, Olga Dror có phân tích về các cáo buộc đưa ra chống lại Nguyễn Đắc
Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường và những lời bác bỏ của hai ông này. Sau
khi trận chiến chấm dứt, người ta đã đào lên được trên 2.800 thi thể ở
Huế. Dror phân tích các bằng chứng liên quan tới những ai đã chịu trách
nhiệm về cái chết của những người này, nhưng, như bà giải thích, không
ai có thể nói chắc chắn họ chết như thế nào. Cũng không ai có thể nói
chắc Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường có nói đúng sự thật hay
không về hành động của họ trong cuộc Công kích Tết. Họ đã và vẫn, cho
đến ngày nay, ở vào một vị trí khó khăn. Họ chọn con đường trở về sống ở
Huế sau 1975 giữa những người đã mất người thân trong trận chiến. Một số
thân nhân của người quá cố qui tội cho hai ông về cái chết của thân nhân
họ. Cả hai ông đều là đảng viên cộng sản và họ phải viết và trả lời các
cuộc phỏng vấn mà không làm phật lòng cấp trên của mình. Để có được
thông tin chính xác về Ngô Kha, rất khó mà tìm ra những thông tin hoàn
toàn không thiên vị và được mọi người có hoàn cảnh và quan điểm chính
trị khác nhau tin cậy.
Tôi phải ghi nhận là gần đây Nguyễn Đắc Xuân
tỏ ra ngay thẳng hơn và thừa nhận mình đã đóng giữ một vai trò trong các
cuộc thanh trừng trong cuộc Công kích Tết mặc dù ông nhấn mạnh rằng đó
là một vai trò gián tiếp. Đáng ngạc nhiên là ông đã thừa nhận với Mark
Bowden, một người Mỹ phỏng vấn ông khi ông này nghiên cứu cho cuốn
Huế 1968, một tài liệu kể lại
tỉ mỉ cuộc Công kích Tết dựa trên các cuộc phỏng vấn cả người Việt và
người Mỹ (82). Nguyễn Đắc Xuân là một nguồn tin quan trọng cho Bowden,
người đã phỏng vấn ông và đã bỏ tiền ra để dịch ra Anh văn cuốn sách
Từ Phú Xuân đến Huế, một hồi
ức về trận đánh giành giật Huế của Nguyễn đắc Xuân (83). Theo Bowden,
"Xuân tin vào sự bắt buộc cần có một cuộc trả thù nhưng chứng kiến rằng
nó đã trở thành một cơn cuồng sát"(84). "Tôi không phải là môt ông
tướng, tôi chỉ là thường dân", Nguyễn Đắc Xuân nói với Bowden. "Tôi rất
buồn vì trong chiến tranh, chúng tôi không ngăn ngừa được nhiều sai lầm
... Có cái hung ác xảy ra do lòng ngây thơ" (85).
Ít nhất từ năm 2008, Hoàng Phủ Ngọc Tường, hiện đã 81 tuổi, cũng đã ngay
thẳng hơn. Khi được phỏng vấn năm 2008, ông một lần nữa phủ nhận mình có
mặt ở Huế trong thời gian Công kích Tết năm 1968 nhưng cũng thừa nhận là
ông đã hết ảo tưởng về chính quyền hiện tại bởi vì, ông giải thích,
chính quyền này không thể "hòa
giải dân tộc" (**) và bởi vì họ áp dụng một "thể
chế cộng sản" (**). Khi được hỏi làm sao cho đất nước được thống
nhất, ông nói rằng người Việt Nam phải "Đánh
giá lại lịch sử, quên đi quá khứ đắng cay thù hận, cần thực sự tôn trọng
và thương yêu nhau" (**) (86).
Và khi tôi sắp hoàn tất bài viết này tôi đã
tình cờ thấy một bài trên Facebook của Nguyễn Quang Lập, bạn thân của vợ
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đây là một bức thư mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đọc
cho con gái mình viết. Mang tựa "Lời
cuối cùng cho câu chuyện quá buồn", Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, bức
thư nầy dành cho những ai yêu mến ông chứ không phải cho những người như
Liên Thành và bè đảng của ông. Trong bức thư này, đề ngày 1 tháng Hai
năm 2018, ông nói rằng có một điều mà ông phải đề cập đến "
Duy
nhất có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là
câu chuyện Mậu thân 1968" (**)(87).
Trong bức thư của mình Hoàng Phủ Ngọc Tường nhấn mạnh lần nữa là ông
không có mặt ở Huế trong cuộc Công kích Tết. Điều khiến người ta nghĩ là
ông có mặt ở đó, là vì trong một cuộc phỏng vấn hồi đầu thập kỷ 1980 của
một nhà báo người Úc tên là William Burchett. Trong cuộc phỏng vấn này,
ông kể chuyện như thể ông là một nhân chứng của các sự kiện mà ông mô tả
(88). Ông giải thích trong bức thư của mình là ông không có mặt ở đó -
những gì ông mô tả không phải là những gì ông nhìn thấy mà là những gì
bạn bè kể lại cho ông. Ông đưa ra ví dụ này: "Đặc
biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba (89)
chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm
tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu’" (**) (90).
Tôi nghe những người bạn kể lại
(88), ông nói trong bức thư của mình.
Người chứng kiến chi tiết đó
không phải là tôi (**).
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói trong bức thư của mình rằng
khi nói về thảm sát Huế tôi đã
hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ (**). Năm 1981 khi ông được
phỏng vấn, ông giải thích, ông "còn
hăng say cách mạng" (**) nhưng bây giờ ông "đã
nhận ra sai lầm của mình." "Không
thể lấy tội ác của Mỹ," ông nói, "để
che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968” (**) (91).
Cuối cùng, ông nói về việc ông đã đau khổ ra sao khi là "một
đứa con của Huế" khi ông
nghĩ về những "hành động giết oan"
của "quân nổi dậy trên mặt trận
Huế" (**) "Đó là," ông
nói, "một sai lầm không thể nào
biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến
tranh cách mạng" (**) (92).
Hầu như chắc chắn
chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế
trong cuộc Công kích Tết hay không, và nếu có thì liệu ông có chủ trì
tòa án nhân dân hay không. Niềm tin của tôi, sau khi đọc nhiều bài viết
của cả những người tấn công lẫn bảo vệ Hoàng Phủ Ngọc Tường, là ông đã
không có mặt ở Huế trong cuộc Công kích Tết mà vẫn ở Chỉ huy sở tiền
phương của MTDTGP trên núi Kim Phụng tại Hương Huyện Trà. Đặng Tiến, một
học giả được tôn trọng ở Pháp, cũng đã đi đến kết luận tương tự trong
một bài viết đăng trên trang Thông Luận vào năm 1995. (93)
Ngô
Kha, Trịnh Công Sơn và Nội chiến
Bụi mù bao phủ chiến tranh tạo ra các vấn đề về sự tin cậy, nhưng không
ai phủ nhận được rằng thành phố Huế, một thành phố trầm lặng và bình
yên, một trong những thành phố sùng đạo Phật nhất, đã trở thành một nơi
bạo lực, một nơi "hai mươi năm
nội chiến từng ngày" như Trịnh Công Sơn hát trong bài "Gia
tài của mẹ". Dân chúng hồi đó, nhất là những người trẻ vào tuổi động
viên đã phải đối mặt với những lựa chọn rất khó khăn. Bài hát "Gia tài
của mẹ" làm ta nghĩ đến các bà mẹ, như mẹ của Ngô Kha chẳng hạn. Trong
lá thư bà viết năm 1974 gửi cho Tổng thống Việt Nam Cộng hoà và các quan
chức khác yêu cầu cho biết chuyện gì đã xảy ra với con trai bà. "Tôi
nay đã 80 tuổi," bà viết. "Không
còn sống được bao nhiêu năm. Buồn vì con trai đã chết trong vụ tết Mậu
Thân ở Huế, chỉ còn nương tựa vào đứa con trai duy nhất là Ngô Kha, nay
cũng bị chính quyền bắt giữ không cho biết tin tức, tôi làm sao sống
nổi...”.(**) (94)"
Giới lãnh đạo cộng sản không thích gọi chiến tranh Việt Nam là một cuộc
nội chiến. Bài hát "Gia tài của
Mẹ” của Trịnh Công Sơn vẫn chưa được trình bày công khai vì bài hát
đó gọi chiến tranh này là một cuộc nội chiến. Các quan chức Cộng sản
không thích các bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn vì trong đó ông
phản đối chiến tranh nói chung và không phân biệt chiến tranh
phi nghĩa với chiến tranh
chính nghĩa (95). Nói cách
khác, ông phản đối chiến tranh
chung chung và không chấp nhận chiến tranh giải phóng dân tộc.
Nguyễn Đắc Xuân nói rằng đây là một vấn đề đã được đưa ra trong một cuộc
họp ở Huế năm 1975, một cuộc họp để quyết định số phận của Trịnh Công
Sơn trong chế độ cộng sản mới. Ảnh hưởng của Ngô Kha đối với Trịnh Công
Sơn là một yếu tố quan trọng mà Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã trình bày để giúp bạn mình (96). Họ lập luận rằng trong những bài hát
ban đầu, đặc biệt là những bài mà ông gọi là "Ca
khúc da vàng" (97), Trịnh Công Sơn đã phản chiến chung chung. Nhưng
đó là trước khi ông chịu ảnh hưởng của Ngô Kha. Trong các bài hát sau
cuộc Công kích Tết, các bài hát trong các tập
Kinh Việt Nam và
Ta phải thấy mặt trời, ông đã
hoàn toàn ủng hộ các mục tiêu của MTDTGP (98). Lập luận này đã có tác
dụng: nó phán xử rằng những đóng góp của Trịnh Công Sơn lớn hơn các tội
của ông, và cuối cùng ông "đứng hoàn toàn về phía Cách mạng (99)".
So sánh Trịnh Công Sơn và Ngô Kha giúp chúng ta hiểu cả hai người hơn. Ý
của tôi là không ai trong hai người đứng hoàn toàn về phe Cách mạng,
nhưng Ngô Kha tiến gần hơn vào việc gia nhập MTDTGP, có lẽ một phần là
vì ông biết ông sắp gặp nguy hiểm nếu ông ở lại Huế. Ba người cộng tác
với MTDTGP có nói rằng Ngô Kha đã bày tỏ ý muốn gia nhập (100). Nhà thơ
Ngô Minh nói rằng có lần ông hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường tại sao" tổ chức"
lại không giúp Ngô Kha "lên xanh".
Hoàng Phủ Ngọc Tường đáp là tổ chức đã liên lạc với Ngô Kha nhưng trước
khi Ngô Kha có thể đi thì ông bị bắt. Cũng có thể, ông nói, Ngô Kha do
dự vì ông không thể quyết định nên "lên
xanh" hay nên ở lại Huế để tiếp tục đấu tranh với bạn bè. Hoàng Phủ
Ngọc Tường nói thêm rằng "mật vụ
địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được" (101).
Nhiều người Việt Nam hải ngoại tin rằng các tác phẩm sáng tạo và hành
động của Ngô Kha và Trịnh Công Sơn làm tăng thêm lòng phản chiến và góp
phần vào sự bại trận của Chính Phủ Việt Nam cọng hòa. Một số người này
còn đi xa hơn nữa và cho rằng Ngô Kha và Trịnh Công Sơn là những tên
cộng sản nằm vùng. Người đề xướng hàng đầu quan điểm này là Liên Thành,
vị trưởng ty cảnh sát, người đã ra lệnh hành hung tàn bạo Ngô Kha và
buộc tội Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng Nguyễn Đắc Xuân là hai người điểm chỉ
những ai sẽ bị hành hung trong thời gian Công kích Tết. Ông tin rằng cả
hai Ngô Kha và Trịnh Công Sơn đều là thành phần của cái mà ông gọi là "một
mạng lưới CS nằm vùng khổng lồ, bán mình cho quỷ" (**) (102).
Liên Thành đảm nhiệm phụ trách "an
ninh tình báo" Huế và tỉnh Thừa Thiên và cộng tác với
Chương trình Phụng Hoàng của
CIA để tiêu diệt các cơ sở cộng sản. Ông đã viết hai cuốn sách dài:
Biến Động Miền Trung (482
trang), xuất bản lần đầu tiên năm 2008 và nay đã tái bản lần thứ 11; và
Huế-Thảm Sát Mậu Thân (766
trang), xuất bản năm 2011 (103). Tôi đã đọc kỹ các tác phẩm của Liên
Thành để xem ông ta có viết về vụ bắt giữ và hành hung Ngô Kha hay
không, nhưng ông không viết. Trên thực tế, ông không bàn gì đến Ngô Kha
trong Biến Động Miền Trung
cả, mặc dù ông đã dành rất nhiều trang cho những lời buộc tội rằng Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân được xác định là những người hành
quyết trong cuộc Công kích Tết. Một điều lạ trong câu chuyện này là cả
hai Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ngô Kha đều là thầy giáo của Liên Thành
(104). Liên Thành không nói gì đến việc dạy học của Ngô Kha, nhưng trong
Biến Động Miền Trung, ông nói
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một thầy giáo giỏi . Ở trường Quốc học, học sinh
cúp cua các lớp Anh văn, Vạn vật, nhưng với môn Việt văn do Hoàng Phủ
Ngọc Tường dạy thì không bao giờ vì "không
một thầy nào dạy môn Việt văn hay bằng thầy" (**) (104). Sự tán
dương này làm độc giả ngạc nhiên vì chỉ trong trang trước đó ông cáo
buộc Hoàng Phủ Ngọc Tường tội diệt chủng. Trong các cuộc nội chiến, cơ
cấu xã hội vốn cấu kết các cộng đồng với nhau bị phá vỡ và thầy giáo với
học sinh - và thậm chí là anh chị em ruột trong một gia đình - có thể
đứng về hai phía khác nhau.
Cuộc nội chiến nầy ở
Việt Nam không phải là cuộc chiến tranh tôn giáo nhưng nó có yếu tố tôn
giáo. Tín đồ Ki-tô giáo có thể là những người chống cộng hơn tín đồ Phật
giáo. Các nhà sư thường đi đầu các cuộc biểu tình chống chính phủ ở Huế
trong các năm
1963 và
1966
và hầu
hết những người tham gia trong các cuộc biểu tình này là Phật tử. Ngô
Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều theo Ki-tô giáo và nhiều cư dân Phật
tử ở Huế không tin vào họ. Các nhà cai trị ở Sài Gòn, như chúng ta đã
thấy, không tin vào sự trung thành của các tướng lãnh và các sĩ quan
cảnh sát Phật tử được bổ nhiệm ở Vùng I chiến thuật. Cũng nên lưu ý là
Liên Thành chống Cộng cực đoan nhưng lớn lên như là một Phật tử. Mẹ của
ông, ông giải thích, là một tín đồ thành kính của một nhà sư tên là
Thích Thiện Lạc, thường được gọi là
Thầy Ngoạn, và bà đã sắp đặt
cho thầy làm lễ quy y cho
Liên Thành và các anh chị em (107). Lễ này liên quan đến việc chấp thuận
theo Tam Bảo của Phật giáo -
Phật, Pháp, Tăng già, và phát
nguyện Ngũ giới (Sanskrit: Pancasila):
giới bất sát, giới bất đạo, giới
bất tà dâm, giới bất vọng ngữ, giới bất ẩm tửu nghĩa là không giết
người, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối và không rượu chè
(**). Sau khi thực hiện pháp nguyện này, sư thầy đặt cho người đó một
Pháp danh.
Mối quan hệ của Liên Thành với Thầy Ngoạn đã
trở thành vấn đề vào tháng 12 năm 1970
khi ông
thẩm vấn một điệp viên cộng sản cấp cao
mới bị bắt và được biết Thầy Ngoạn đang hoạt động cho MTDTGP và ngôi
chùa An Lăng của thầy, cách Huế hai cây số về phía tây nam, là nơi trú
ẩn và hội họp của cán bộ cộng sản. Được hỗ trợ bởi hai trung đội Cảnh
sát dã chiến, Liên Thành đã tấn công chùa An Lăng, giết chết ba binh
sĩ MTDTGP và bắt Thầy Ngoạn. Khi mẹ của Liên Thành biết tin là con trai
mình bắt Thầy Ngoạn, bà đã nhắn cho ông qua một người con trai khác: "thả
Thầy ra, đời thủa nhà ai hắn lại đi bắt Thầy đã làm lễ quy y và đặt Pháp
danh cho hắn, thằng con bất hiếu! (**) (108)". Nhưng lời yêu cầu
khẩn thiết của bà chỉ như đàn gải tai trâu. Tại một cuộc họp của
Hội đồng An Ninh Tỉnh để
quyết định việc trừng phạt Thầy Ngoạn, một thành viên đề nghị sáu tháng
tù, một người khác một năm tù, nhưng Liên Thành đã thuyết phục họ giam
thầy hai năm tại đảo Côn Sơn (109).
Một mẫu tin thú vị của câu chuyện này là người
chỉ huy hai trung đội trong vụ đột kích này là Trịnh Công Hà, anh trai
của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Hà là bạn cũ của Liên Thành từ ngày còn
đi học, và cả hai đều là thành viên của Câu lạc bộ Judo Huế. (Liên Thành
cho biết ông mang đai đen, Trịnh Công Hà thì đai nâu) (110).
Huế không phải là một thành phố nhỏ hồi
thập kỷ 1960 và 1970,
nhưng nó gây ấn tượng cho tôi như là
một thành phố nhỏ. Dường như mọi người đều biết nhau. Nhưng điều đó
không có nghĩa là họ hiểu, hoặc muốn hiểu, chính kiến của bạn bè và hàng
xóm của họ. Vì lý do nghề nghiệp, Liên Thành muốn biết quan điểm của mọi
người - và ông đặc biệt quan tâm đến Trịnh Công Sơn. Ông không đề cập gì
đến Trịnh Công Sơn trong Biến
Động Miền Trung nhưng trong
Huế-Thảm Sát Mậu Thân ông đưa vào cả một bài viết dài mà ông đã đăng
trên web vào tháng 5
năm 2009.
Liên Thành nói ông thấy cần phải viết
bài "Trịnh Công Sơn và những hoạt
động trong vùng”,
(111)
sau khi đọc hai bài viết xuất hiện trên
web năm
2009
của hai tác giả, cả hai đều là bạn của
Trịnh Công Sơn và cả hai đều là cựu quân nhân trong Quân đội VNCH. Họ
chỉ trích Trịnh Công Sơn vì quan điểm thiên tả của ông và vì ông không
chịu ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa (112).
Ngô Kha,
theo Hoàng Phủ Ngọc Phan, không phải là
một người cộng sản. "Cũng xin nói
thật, ông nói, Ngô Kha không
phải là Việt Cộng nằm vùng. Anh hoạt động như những người phản chiến
chống Mỹ trên khắp thế giới. Chính vì vậy mà sau năm 1975, bạn bè ở Huế
đã gặp không ít khó khăn khi làm thủ tục xác nhận liệt sĩ cho anh”
(**) (115).
Liên Thành, một người hành động theo
nguyên tắc phạm tội vì liên hệ, đã bắt rất nhiều người vô tội trong cái
mạng lưới khổng lồ mà ông ta căng ra để săn tìm những ai "bán
mình cho quỷ"(**). Lẽ dỉ nhiên, theo Liên Thành, Hoàng Phủ Ngọc Phan
là một trong những con quỷ ấy. Tại
Huế-Thảm Sát Mậu Thân, ông
cáo buộc Hoàng Phủ Ngọc Phan là một thành viên, cùng với Nguyễn Đắc
Xuân, trong nhóm những người đã giết các bác sĩ người Đức trong vụ được
đề cập trên đây (116). Hoàng Phủ Ngọc Phan phủ nhận việc giết hại bất kỳ
ai và nói rằng nếu Liên Thành trưng ra được bằng chứng không thể chối
cải thì ông xin tự vẫn trước mặt
Liên Thành (**) (117).
Về Trịnh Công Sơn, cáo buộc gây ngạc nhiên
nhất và có lẽ tai hại nhất của Liên Thành không phải là Trịnh Công Sơn
là một tay cộng sản nằm vùng mà ông ta, để đổi lại sự đãi ngộ, đã đồng ý
cung cấp cho Liên Thành thông tin về nhiều tay nằm vùng khác, nhiều
người trong số đó là bạn thân của Trịnh Công Sơn. Trong bài “Trịnh
Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” Liên Thành nói rằng ông đã thu
thập bằng chứng cho thấy Trịnh Công Sơn có liên kết với nhiều người cộng
sản và khi ông giáp mặt với người ca sĩ-soạn nhạc với bằng chứng, ông
nầy đồng ý cung cấp cho ông những thông tin về những tay
cộng sản nằm vùng ở Huế
(118).
Đổi lại, Liên Thành cho biết ông đã cấp
cho Trịnh Công Sơn một giấy tờ gọi là "Sự
vụ lệnh công tác đặc biệt", nó
giúp anh ta trốn quân dịch, khỏi
bị bắt trong các cuộc ca hát phản chiến, hoặc biểu tình chống chiến
tranh (**). Giấy tờ này là một củ cà rốt, Liên Thành nói. Còn cây
gậy là bị cầm tù bốn năm ở đảo Phú Quốc, một cái án mà ông ta có thể sắp
xếp vì cấp bậc cao của ông ta trong lực lượng an ninh -
Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa
Thiên-Huế và là Tổng Thư Ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh Thừa
Thiên và Thị Xã Huế (**).
Tôi không biết nên nói sao về các mô tả của
Liên Thành. Trong bài viết của ông về Trịnh Công Sơn và trong những cuốn
sách của mình, ông khoe khoang về những thành công của ông trong việc
bắt giữ các trí thức ở Huế mà ông xác định là hoạt động cho MTDTGP
(119).
Chắc chắn một số trí thức là những tay
nằm vùng cho MTDTGP và chắc chắn đã có nhiều hành động khủng khiếp gây
nên do cả hai phía, nhưng vì Liên Thành viết với sự tức giận không che
giấu và khinh thị đối với những ai có liên hệ với MTDTGP, cuốn sách của
ông giống như các bài tuyên truyền, chứ không phải là hồi ức lịch sử
khách quan. Cuốn sách Biến Động
Miền Trung của ông do Ủy Ban
Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam (**) xuất bản. Liên Thành là
chủ tịch của ủy ban này, được thành lập vào tháng 1 năm 2010. Một cuốn
sách khác của ông, Huế-Thảm Sát
Mậu Thân, là tự xuất bản (120).
Ông Liên Thành cáo buộc Trịnh Công Sơn hai tội ác. Một là giúp đỡ bạn
Hoàng Phủ Ngọc Tường và em là Hoàng Phủ Ngọc Phan, rời khỏi Huế để gia
nhập MTDTGP, một cuộc ra đi, Liên Thành cho biết, "Thành
ủy Huế đã trực tiếp thu xếp" (121). Tội ác kia là liên hệ với những
tay cộng sản ở Huế, đặc biệt với một người tên là Lê Khắc Cầm, người
thích đọc và dịch các tác phẩm văn chương Anh và Pháp ngữ. Liên Thành
nói rằng Lê Khắc Cầm là "cán bộ
điều khiển và chỉ đạo trực tiếp" (**) Trịnh Công Sơn (122).
Lê
Khắc Cầm và Trịnh Công Sơn rõ ràng là
bạn bè và cả hai cùng làm việc với nhau trong số Giáng sinh 1974 của tạp
chí Đứng Dậy, gồm các bài
viết do bạn bè và các cựu học sinh đòi hỏi chính phủ phải giải thích
chuyện gì đã xảy ra cho Ngô Kha (123).
Trịnh Công Sơn đã viết bản thảo "Tuyên
cáo", và cuối cùng bốn mươi sáu giáo sư, nhà văn và nghệ sĩ ký tên,
xuất hiện ở trang đầu của số báo và một bức thư gửi cho Ngô Kha có tựa
đề “Lá thư cho một người đang ở
tù hay đã bị thủ tiêu” (124).
Bức thư này tạo nên một sự xôn xao khi
nó được in lại trong các cuốn sách và tạp chí vào các năm
2003
và
2004
bởi vì bức thư cho thấy Trịnh Công Sơn
đã tham gia toàn diện hơn vào cuộc đấu tranh chính trị, nhiều hơn người
ta thường biết (125).
Thoạt đầu
một số độc giả, trong đó có Nguyễn Đắc Xuân, không tin là Trịnh Công Sơn
đã viết bức thư vì nó chứa những cụm từ rất cộng sản – các cụm từ như "tập
thể nhân dân" và "vấn đề tổ
chức cơ cấu". Nhưng rõ ràng là xác thật: Nguyễn Đắc Xuân đã làm một
số điều tra và phát hiện ra rằng Bửu Ý có bản thảo viết tay của Trịnh
Công Sơn của cả hai "Bản Tuyên bố" và bức thư gửi Ngô Kha (126).
Trong bức thư Trịnh Công Sơn có những từ rất
gay gắt đối với “công an mật vụ
trí thức”, mật vụ chuyên theo dõi trí thức. "Kha,
ông viết, có còn nhớ trước đây có
lần mình đã là nạn nhân của một tên điểm chỉ trong bọn nó không?"
(**)(127).
Ông
mô tả tình hình hiện nay là khủng khiếp
nhưng lại cho đây là một điều tốt bởi vì người dân sẽ thấy họ không còn
gì để mất nữa. "Khi con người
nhận thấy, ông nói, mình
không còn gì để bị bóc lột và tước đoạt thêm thì đứng dậy và lên đường"
(**). Trịnh Công Sơn sử dụng hình ảnh trái chín muồi để nói về sự cáo
chung của chế độ hiện tại:
Chắc Kha còn nhớ rõ là chúng ta thường nói với
nhau phải chờ một ngày mà mỗi sự kiện tình thế phải có một trái chín
muồi. Hôm nay phải chăng những trái cây chờ mong đã chín tới. Những trái
cây đói khổ, chết chóc, thất nghiệp, ruộng vườn v.v… hỗ trợ bởi một hoàn
cảnh xã hội rách nát, bè phái, tham nhũng, chia rẽ, tù tội, tra tấn… Như
thế thì Kha này, có phải là một vận hội mới đã đến lúc phải thành hình
hay không ?
(**) (129)
Trịnh Công Sơn muốn đem hy vọng cho Ngô Kha nhưng không muốn kích động
ông làm điều gì bất cẩn. Những lời cảnh báo của ông cho thấy là ông hiểu
rõ tính nóng nảy của bạn mình. "Mình
biết được những nao nức như bờm ngựa bất kham trong Kha", ông nói
với bạn, "Hãy cố gắng trấn tĩnh,
đừng quá nôn nóng như ngày xưa" (**). Ông lập lại lời cảnh cáo chớ
nôn nóng ở hai trang sau đó.
Trịnh Công Sơn rõ ràng là tác giả của bức thư này - nhưng ông có phải là
một phần tử cộng sản nằm vùng và ông Lê Khắc Cầm có phải là người chỉ
đạo ông không? Nguyễn Đắc Xuân, trong bài viết của ông về bức thư của
Trịnh Công Sơn, nói rằng ông đã hỏi Lê Khắc Cầm: "Vậy
Trịnh Công sơn có phải là cơ sở cách mạng không?" "Điều
đó rất khó nói, Lê Khắc Cầm trả lời.
Nhưng anh Sơn biết tôi là cơ sở
của thành uỷ, làm việc với tôi có nghĩa là làm việc với Cách mạng"
(**) (131). Khi được hỏi về ngôn ngữ cách mạng trong bức thư của Trịnh
Công Sơn, Lê Khắc Cầm nói rằng việc nầy có thể phản ánh thực tế là “lúc
ấy chúng tôi trong ấy có Trịnh Công Sơn đọc rất nhiều sách báo từ chiến
khu gửi vào và đặc biệt đêm nào cũng ôm cái Radio nghe đài Hà Nội với sự
ngưỡng mộ Cách mạng thì chuyện ngôn ngữ viết bài đấu tranh cách mạng bị
ảnh hưởng là chuyện thường (**) (132).
Rõ ràng Trịnh Công Sơn và Lê Khắc Cầm là bạn
của nhau, nhưng điều đáng chú ý là Lê Khắc Cầm, người mà Liên Thành quả
quyết là người chỉ đạo của Trịnh Công Sơn, nói với Nguyễn Đắc Xuân rằng
ông không biết Trịnh Công Sơn có phải là cơ sở cách mạng hay không. Nếu
ông Cầm biết ông Sơn là một cơ sở, đó là vào năm
2011
khi Nguyễn Đắc Xuân phỏng vấn ông, ông
chẳng có lý do gì để giấu thông tin này.
Những tội ác Liên
Thành buộc cho Trịnh Công Sơn không phải là những tội ác tày trời, có
thể gởi bị can vào tù vô hạn định nhưng chắc chắn Trịnh Công Sơn cũng
biết rằng Liên Thành có quyền làm những điều ông ta muốn và, như ông ta
đã nói với Trịnh Công Sơn, chẳng cần có phiên tòa xét xử gì cả. Ông ta
có thể ra lệnh bỏ tù Trịnh công Sơn, biện minh rằng "tình hình an ninh"
đòi hỏi như vậy. Nếu câu chuyện của Liên Thành là đúng, nếu Trịnh Công
Sơn đồng ý làm một điệp viên hai mạng, việc này có thể do ông thấy mình
không thể lựa chọn, rằng nếu ông muốn tiếp tục viết và hát những bài
phản chiến, ông phải có một số thỏa thuận với Liên Thành. Điều này quan
trọng vì Liên Thành nói rằng mặc dù Trịnh Công Sơn có cung cấp tên của
một số cơ sở Việt Cộng, ông tiết lộ chỉ "1/10
những sự việc mà Trịnh Công Sơn biết được." "Có
nhiều việc rất quan trọng, Liên Thành nói, "Trịnh
Công Sơn đã tham gia, biết rõ ràng, tường tận, nhưng y vẫn giữ im lặng,
không hề báo cáo." (Liên Thành cho biết ông biết được những chuyện
này từ các đường dây nội tuyến
khác) (**)
(133)
Bí mật vẫn còn bao trùm cả hai nhân vật Ngô Kha và Trịnh Công Sơn, nhưng
điều dường như không thể phủ nhận là Ngô Kha và Trịnh Công Sơn đã truyền
cảm hứng và ảnh hưởng lẫn nhau. Nhiều đoạn trong "Trường
ca hòa bình" của Ngô Kha rất giống nhiều đoạn trong các bài hát của
Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt
Nam và Ta phải thấy mặt trời
như các bài "Ta quyết phải sống",
"Huế, Sài gòn, Hà Nội" và "Việt
Nam ơi hãy vùng lên”. Dưới đây là những dòng mở đầu "Trường ca hòa
bình" của Ngô Kha:
Mừng
anh em như mới chào đời
Ngày
Việt Nam khai sinh ngôn ngữ mới
Ba mươi
triệu đồng bào anh em đứng dậy
Như
Trường Sơn hùng vĩ đời đời (134)
Hòa
bình về trong trái tim người…(**)
Đây là những câu
50-57:
Ta đồng
hành tiến bước
ca lên
bài Việt Nam thống nhất
Giữa vận hội lịch sử
Ta đi
từ Nam Quan đến Cà Mau (135)
từ Cửu
Long, Hương Giang ra tới Hồng Hà
Phú
Quốc, Côn Lôn, Ba Vì, Côn Đảo(136)
Từ Huế,
Sài Gòn ra Thái Bình, Hà Nội, ta cất lời vang dưới bầu trời (**
Cũng nên lưu ý các điểm tương đồng giữa các câu thơ trên và những câu
này trong bài "Huế Sài Gòn Hà Nội"
của Trịnh Công Sơn
Từ
Trung, Nam, Bắc, chờ mong nung đốt
Những
bó đuốc réo vui tự do
Đường
đi đến những nơi lao tù
Ngày
mai sẽ xây trường hay họp chợ
Dân ta
về cày bừa đủ áo cơm no
Bàn tay
giúp nước, bàn tay kiến thiết
Những
dấu căm hờn xưa nhạt mờ. (**)
Và những dòng này trong bài "Ta
thấy gì đêm nay" của Trịnh Công Sơn:
Ta đã
thấy gì trong đêm nay
Cờ bay
trăm ngọn cờ bay
Rừng
núi loan tin đến mọi miền
Gió hòa
bình bay về muôn hướng (**)
Cả hai Ngô Kha trong bài trường ca và Trịnh
Công Sơn trong bài hát đều nói về những điều tốt lành sẽ diễn ra khi hòa
bình đến: sẽ không còn bom rơi, hận thù sẽ được thay bằng tình yêu, và
cuối cùng thì đất nước - cả ba miền - sẽ được thống nhất. Cuộc hòa đàm
Paris khai mạc vào tháng 5 năm
1968.
Các đợt thương lượng kéo dài lê thê
trong năm năm - bản thỏa thuận cuối cùng mãi tới ngày 17 tháng Giêng năm
1973 mới được ký -
nhưng sự
khởi đầu của các đợt thương lượng này đã tạo ra một niềm lạc quan lớn
lao trên cả Việt Nam và Hoa Kỳ (137). Ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn đôi
khi nghe có vẻ như quân nhạc. Những bài hát của ông trong
Kinh Việt Nam và
Ta phải thấy mặt trời là
những bài ca phong trào, những bài động viên dân chúng. Mục đích của ông
trong những bài hát này, tuy nhiên, với tôi dường như là sử dụng sinh
lực vốn có trong ngôn từ hành khúc và chuyển nó sang thành các dự án hòa
bình. Giống như Martin Luther King trong bài "diễn văn tiếng trống" nổi
tiếng của ông, Trịnh Công Sơn muốn trở thành một tay chơi trống, nhưng
là một tay trống ca ngợi tình yêu, một tay trống ca ngợi hoà bình và tái
thiết chứ không phải cổ vũ chiến tranh (138). "Ƭɑ
đi
trong cách
mạng tự hào", Trịnh Công Sơn hát “Việt
Nam ơi hãy vùng lên”. Nhưng rồi chuyển sang “Ta
sẽ chiếm trăm công trường / Ta xây nên nghìn phố hòa bình” (**).
Vậy Ngô Kha và Trịnh Công Sơn khác nhau thế
nào? Phong trào đấu tranh ở Huế phần lớn - nhưng không phải toàn bộ - là
một phong trào Phật giáo. Ngô Kha, hình như là một Phật tử, và Trịnh
Công Sơn có nói Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời
mình trong một số bài viết và phỏng vấn (139). Trong thập niên 1960 các
tu sĩ Phật giáo ở miền Nam Việt Nam không chú trọng đến việc đem lại
bình an cho nội tâm mà họ muốn đem lại bình an cho đất nước; họ muốn
chấm dứt chiến tranh. Họ là những người mà nay ta gọi là "Phật
tử dấn thân" (**). Có nhiều cách dấn thân khác nhau và ở Việt Nam
trong thập niên 1960 các cách thế khác nhau đã được biểu lộ. Cách dấn
thân của Thích Trí Quang khác với cách của Thích Nhất Hạnh. Và Thích Tâm
Châu, người gần gủi với chế độ Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ, có cách
riêng của ông. Trong cuốn sách có tựa là “Being peace”, Thích Nhất Hạnh
cho rằng "being peace" có nghĩa là "making peace". "Không phải chỉ bằng
cách xuống đường hay biểu tình chống tên lửa hạt nhân mà chúng ta có thể
mang lại hòa bình", ông viết. “Chính là với khả năng cười, thở và thiền
mà ta có thể tạo lập hòa bình” (140).
Để đạt đến hòa bình thế giới, Thích
Nhất Hạnh nhấn mạnh, người ta phải bắt đầu bằng cách chăm lo hòa bình
ngay trong mình. Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ, sẽ đồng ý. Ông phấn đấu để
bản thân mình có lòng khoan dung và trắc ẩn để khuyến khích người khác
cũng khao khát những đức tính này như ông. Ông muốn, như ông hát trong "Để
gió cuốn đi" "có một tấm lòng".
Ông muốn mọi người yêu thương nhau "Dù
đêm súng đạn, dù sáng mưa bom” (**)(141). Song, Ngô Kha thì khác.
Ông cổ vũ học sinh đốt xe Mỹ và thủ gạch đá trong túi để ném cảnh sát
(142). Ông sẳn sàng tham gia vào các cuộc biểu tình chống tên lửa hạt
nhân mà Thích Nhất Hạnh nói đến và có thể khiêu khích cảnh sát để bắt
ông, hoặc đánh ông, hoặc bắn ông.
Câu chuyện Ngô Kha gởi đến chúng ta điều gì?
Một điều rỏ ràng là nỗi kinh hoàng của cuộc nội chiến. Người Mỹ nghĩ
chiến tranh là "ở kia kìa", như ông Nguyễn Thanh Việt chỉ ra. Cuộc chiến
tranh Cách mạng và Nội chiến của người Mỹđã thuộc về một quá khứ xa xôi
và những ký ức của họ về chúng, ông nói thêm, nay đã được "tái diễn và
khử trùng qua những lần tái diễn (143)." Câu chuyện của Ngô Kha cho thấy
chiến tranh Việt Nam có tính cách riêng tư và gần gũi như thế nào. Cả
Ngô Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là giáo sư của Liên Thành. Anh trai
của Ngô Kha và anh họ của ông, Tướng Ngô Dzu, thuộc QLVNCH và Ngô Kha
cũng vậy. Tuy nhiên, khi tại ngũ trong QLVNCH, Chiến Đoàn Nguyễn Đại
Thức của ông đã đánh nhau với QLVNCH và vì thế trong chính con người của
ông đã hàm chứa bản chất nội chiến của cuộc xung đột. Tất nhiên, cuộc
nội chiến này không phải là một cuộc nội chiến thuần túy: nó cũng là một
cuộc chiến giữa Hoa Kỳ với các nước cộng sản Nga và Trung Hoa. Một bức
ảnh trong cuốn sách Biến động
miền trung cho thấy hình của Liên Thành nhỏ con đứng bên cạnh một cố
vấn HK cao lớn của Chương trình Phoenix làm lộ rỏ chiều kích quốc tế của
cuộc xung đột này (xem hình 4).
Theo một câu tục ngữ của người Việt,
"Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết" (144).
Hình 4: Liên Thành đứng trước một viên cố vấn Mỹ
Cũng có những điều ta học được từ câu chuyện của Ngô Kha về việc nhớ và
tha thứ. Ngô Kha yêu đất nước của mình và hy sinh mạng sống khi làm
những điều mà ông nghĩ cần phải làm để cứu đất nước. Ông đã hành động
với một lòng nhiệt thành và can đảm táo bạo. Ông xứng đáng được mọi
người ở cả hai phía tưởng nhớ. Người ở bên nầy phải thông cảm và tưởng
nhớ người ở bên kia. Sự tha thứ cũng cần thiết vì nếu không có tha thứ,
chúng ta sẽ có cái mà Nguyễn Thanh Việt gọi là "sự lãng quên bất công",
dấu diếm nhiều điều vì không nhìn nhận quá khứ, ví dụ như, khi các cựu
thù đồng ý ký kết những thỏa hiệp nhưng từ chối tha thứ, để mặc cho lòng
oán giận và căm thù âm ĩ bên dưới bề mặt yên tĩnh. Cả người thắng lẫn kẻ
bại đều có thể lãng quên bất công và coi bản thân mình là nạn nhân chứ
không phải là kẻ gây ác, nhưng sự thất bại, theo Nguyễn Thanh Việt,
thường "làm trầm trọng thêm tình cảm này". Kẻ thua cuộc có thể dễ coi
mình là nạn nhân. Người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ, những người bị mất tất cả,
ông nói, "có khuynh hướng quên đi, đặc biệt trong các lễ tưởng niệm, các
tệ hại tham nhũng của chế độ miền Nam" (145). Nhưng người thắng cuộc
cũng quên. Họ thấy mình là nạn nhân của ngoại xâm và xem cuộc chiến này
là chiến tranh của người Mỹ. Họ, Nguyễn Thanh Việt nói, "đã thuận lợi
mắc chứng bệnh mất trí nhớ, quên những gì họ đã gây ra" (146). Họ quên
rằng cuộc chiến tranh nầy cũng là một cuộc nội chiến.
Sự tha thứ mà Nguyễn Thanh Việt mong muốn -
không chỉ cho Việt Nam mà cho cả thế giới - là sự tha thứ thuần túy, tha
thứ cho điều không thể tha thứ được. Sự tha thứ thuần túy có vẻ như
không hợp lý và không hiện thực - thậm chí là điên rồ - nhưng , ông đặt
câu hỏi, có phải nó hợp lý hơn và hiện thực hơn là chiến tranh triền
miên không? Nếu con người cần sống còn, ông nói, "chúng ta cần một hiện
thực không thể thực hiện được"
(147)
JOHN C.
SCHAFER là Professor Emeritus, Khoa
Tiếng Anh, Đại học Humboldt State. Ông dạy tiếng Anh ở Việt Nam trong
Đội tình nguyện quốc tế (1968-1970)
và Chương trình Fulbright (1971-1973, 2001). Tác giả
xin cảm ơn Cao Thị Như Quỳnh vì sự hỗ trợ của bà cùng các nhà phê bình
ẩn danh đối với bản thảo đầu tiên của luận văn này. Thư ký tòa soạn
Trịnh Mỹ Lưu đã giúp tôi rất nhiều trong việc chuẩn bị bản đánh máy của
tôi để ấn hành.
TÓM TẮT
Bài này miêu tả Ngô Kha, một giáo viên, nhà
thơ, sĩ quan quân đội và nhà hoạt động chống chính phủ ở Huế bị mật vụ
bắt giữ vào tháng Hai năm 1973,
và không còn ai gặp ông nữa. Luận văn
miêu tả chuyện dạy học, viết lách, tình bạn của ông với Trịnh Công Sơn,
và các hoạt động chống chiến tranh của anh, bao gồm cả việc tham tham
gia vào một đơn vị ly khai của quân đội Sài Gòn đánh nhau với lực lượng
của Nguyễn Cao Kỳ vào năm 1966.
Bài luận nêu bật cái đau buồn của cuộc
nội chiến ở Việt Nam và nỗi khó khăn trong việc phục dựng các sự kiện
trong thời chiến, tìm kiếm các nguồn thông tin không thiên vị. Luận văn
kết luận bằng cách đề nghị rằng "sự tha thứ tinh khiết," do nhà văn Mỹ
gốc Việt Nguyễn Thanh Việt trình bày, có thể là cách duy nhất để chấm
dứt cuộc chiến tranh triền miên.
TỪ KHÓA: Ngô Kha, tha thứ, nội chiến, Trịnh Công Sơn, Liên Thành, Nguyễn
Thanh Việt
-------------------------------
Ghi
Chú
1. “Hiện tượng Trịnh Công Sơn”,
Journal of Asian Studies 66 (2007), 597-643; “Cái chết, Phật giáo và
chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn”,
Journal of Vietnamese Studies 2
(2007), 144-186. Một cuốc sách nhỏ tôi viết đối sánh Trịnh Công Sơn
và Bob Dylan xuất bản năm 2012. Xem John C. Schafer,
Trịnh Công Sơn-Bob Dylan: Như
Trăng và nguyệt?, do Cao Thị Như Quynh dịch (Tp. Hồ Chí Minh: Trẻ,
2012). Các từ “Trăng”** và “Nguyệt”**
đều dùng để chỉ Trăng trong một ca khúc quen thuộc của Trịnh Công Sơn có
tên “Nguyệt Ca”.
2. Những người bạn tài năng khác của Trịnh Công Sơn gồm có các họa sỹ
Bửu Chỉ (1948-2002) và Đinh Cường (1939-2016), nhà sử học Nguyễn Đắc
Xuân (s. 1937), tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác giả, dịch giả và
giáo sư Pháp văn Bửu Ý (s. 1937).
3. Tên đầy đủ của Liên Thành là Nguyễn Phúc Liên thành.
4. Tác giả chụp tháng 3 2017.
5. Các bạn là Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc
Phan. Hai người sau là anh em ruột. Liên Thành buộc tội cả ba người can
dự vào cuộc thảm sát người dân Huế trong hai cuốn sách của ông:
Biến động miền Trung: những bí
mật lịch sử trong các giao đoạn 1968-1972. Ấn bản lần thứ 7
(California: Ủy Ban truy tố tội
ác đảng Cộng sản Việt Nam), 2014, xuất bàn lần đầu hồi năm 2008; và
Huế thảm sát Mâu Thân (Nam
California, tác giả xuất bản, 2011).
6. Đường Ngô Kha ở Phường Phú Hiệp gần gốc bắc Kinh thành Huế (nhưng
ngoài vòng thành). Trường mang tên Ngô Kha là
Trường tiểu học Ngô Kha trên
đường Cao Bá Quát ở Huế. Một bản chụp giấy công nhận liệt sỹ cho Ngô Kha
in trong Ngô Kha hành trình thơ,
hành trình dấn thân & ngôi nhà vĩnh cửu do Bửu Nam và Nguyễn Thị Ánh
Nga biên soạn (Huế: Hội nhà văn,
2013), 459.
7. Nguyễn Thanh Việt, “Just Memory: War and the Ethics of Remembrance,”
Văn học sử Hoa Kỳ 25, no. 1 (2013), 150.
8. Nguyễn Thanh Việt, Nothing
Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (Cambridge, MA: nxb ĐH
Harvard 2016), 6-7, 66-67.
9. Sđd 33-40.
10. Jacques Derrida, On
Cosmopolitanism and Forgiveness, do Mark Dooley và Michael Hughes
dịch (London: Routledge, 2011, 27-60; Nguyễn Thanh Việt,
Nothing Ever Dies, 286-287.
11. Nguyễn Thanh Việt, Nothing ever dies, 283.
Derrida, On Cosmopolitanism and Forgiveness, 39.
12. Nguyễn Thanh Việt, Nothing ever dies, 288.
14. Sđd.
15. Tôi dạy Anh văn tại Việt Nam từ 1698 đến 1970 thuộc Chương trình
tình nguyện Quốc tế vốn được thành lập chủ yếu do sự tài trợ của Cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ. Từ năm 1971 đến 1973 tôi dạy Anh văn dưới sự
bảo trợ của Chương trình Fulbright vốn do Bộ Ngoại gia Hoa kỳ thành lập
và điều hành.
16. Bửu Ý, Trịnh Công Sơn: một
nhạc sỹ thiên tài (Tp Hồ Chí Minh, Trẻ, 2003), 87-89.
17. Các thông tin về tiểu sử của Ngô Kha có thể đọc trong hai hợp tuyển
các bài viết và tài liệu: Bửu Nam và Phạm Thị Ánh Nga, biên soạn,
Ngô Kha hành trình (các tham
chiếu sau đây chỉ ghi tựa sách); Trần Thức và các đồng sự,
Ngô Kha: ngụ ngôn của một thế hệ
(Huế, Thuận Hóa, 2005).
18. Các tác giả sau đây đã miệu tà Ngô Kha đã động viên học sinh cỏ ở
trong và ngoài giờ học: Lê Văn Lan, “Ngô
Kha, Lẫy lừng trên bục giảng” , trong
Ngô Kha hành trình, 128-131;
và Lê Văn Ngân “Ngô Kha, “Người
thầy cũ, người bạn” trong Ngô
Kha hành trình, 252-256.
19. Bửu Nam và Phạm Thị Anh Nga, biên soạn,
Ngô Kha hành trình, bìa sau
20. Nguyễn Duy Hiền đề cập tới các cuộc biểu tình nầy trong”Ghi
chép ngắn về cuộc đời nhà thơ-nhà giáo Ngô Kha” trong Trần Thức và
đồng sự, Ngô Kha ngụ ngôn,
12-13.
21. Ngô Minh, “Ngô Kha, một cõi
tan bồng” trong Ngô Kha hành
trình, 278-279.
22. Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô
Kha-Trịnh Công Sơn, từ tình bạn đến tình nước” trong
Ngô Kha hành trình, 237.
23. Nguyễn Duy Hiền, “Ghi chép
ngắn”, 9 ghi chép 2. Nhà thơ Ngô Minh cũng nói rõ ràng là
anh ruột của Ngô Kha là Ngô
Du, không phải tướng Ngô Dzu. Xem Ngô Minh, “Ngô
Kha, một cõi tang bồng”, 278.
24. Tuy nhiên trong một bài báo viết về việc Ngô Kha chết ra sao trên
web năm 2009, Nguyễn Đắc Xuân nói là Ngô Dzu, “tướng
thời VNCH”, là bác
của Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, “Vài
điều về Liên Thành, Tác giả Biến Động Miền Trung”, sách hiếm,
25.11.2009, http://sachhiem.net/NguyenDacXuan/ NguyenDacXuan017.php
(truy cập 30.10.2016). Một phiên bản ngắn hơn của bài mang tựa “Cái
chết của Ngô Kha như tôi đã
biết”, in trong Ngô Kha hành
trình, 220-222.
25. Ngô Minh nói Ngô Kha được
giải ngũ năm 1964. (Hình như ông được
biệt phái hơn là giải ngũ vì
vào đầu năm 1972 bị xét xử tại một tòa án binh). Tuy nhiên, Nguyễn Đắc
Xuân nói Ngô Kha còn chưa ra trường huấn luyện sỹ quan cho đến năm 1965
và sau đó, theo bổ nhiệm của người bà con, tướng Ngô Dzu, làm tùy viên
báo chí. Xem “Ngô Kha, một cõi
tang bồng” 279 và Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô
Kha-Trịnh Công Sơn”, 237.
26. Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Ngôi
nhà của những gã lang thang”, trong
Ngô Kha hành trình, 229; và
Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô Kha-Trịng
Công Sơn”, 237.
27. Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed (Lexington, KY: nxh Đại học
Kentucky, 2000), 2. Khi tướng Nguyễn Khánh và “các tướng trẻ” (nguyên
văn: Young Turks) sau cuộc mưu sát Ngô Đình Diệm tướng Khánh đã hũy bỏ
Dụ số 10. Xem them Cao Huy Thuần, “Vài
điều cần bàn về phong trào Phật giáo”,
Thời đại mới
21 (T. Năm 2011), có thể xem tại
http://www.tapchithoidai. org/ThoiDai21/201121_CaoHuyThuan.htm (truy cập
ngày 23.09.2014). Thiên Đo giải thích rằng “Đạo dụ đáng xấu hổ số 10 đặt
mọi tổ chức tôn giáo, ngoại trừ các giáo hội Công giáo và Tin lành, vào
loại hiệp hội công cộng. Điều 7 của Dụ quy định rằng “giấy phép thành
lập một hiệp hội có thể bị từ chối mà không cần nêu lý do”. Xem Thiên
Đô, “The Quest for Enlightenment and Cultural Identity: Buddhism in
Contemporary Vietnam” trong quyển
Buddhism and Politics in Twentieth-Century Asia, Ian Harris biên tập
(London, Pinter, 1999), 270-271.
28. Về thông tin của việc rắc rối chi tiết và mô tả cuộc đấu của Ngô
Đình Diệm với giới Phật tử năm 1963, xem Edward Miller, “Religious
Revival and the
Politics of Nation Building: Reinterpreting the 1963 ‘Buddhist crisis’
in South
Vietnam,” Modern Asian Studies
29 (2014), 1903-1962.
29. George McTurnan Kahin, Intervention: How America Became Involved in
Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986), 423 và 535, ghi chú 49.
30. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: nxb Viking, 1983),
445.
31. Lewis W. Walt, Strange War, Strange Strategy: A General’s Report on
Vietnam (New York: Funk & Wagnalls, 1970), 117.
32. Neil Sheehan, “Airbase is Shelled,” The New York Times, 21.05.1966;
xem thêm Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed, 124.
33. Nguyễn Đắc Xuân cho là Ngô Kha thành lập chiến đoàn này, song Nguyễn
Duy Hiền nói rằng Ngô Kha là “một trong những thành viên nòng cốt lãnh
đạo đơn vị ly khai của QĐ Sài
Gòn. Xem “Ngô Kha-Trịnh Công Sơn”,
237; và Nguyễn Duy Hiền, “Ghi
chép ngắn”, 11.
34. Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô
Kha-Trịnh Công Sơn”, 238.
35. Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Căn
nhà của những gã lang thang”, 229. Xem thêm Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô
Kha-Trịnh Công Sơn”, 237
36. Liên Thành, Biến Động Miền
Trung, 145-146.
37. Sđd, 145. Xem thêm Liên Thành,
Huế thảm sát mậu thân,
211-213
38. Nguyễn Đắc Xuân nói rõ Liên Thành là học sinh của Ngô Kha nhưng ông
cho biết là khi nào hay ở trường nào. Xem Nguyễn Đắc Xuân, “Vài
điều về Liên
Thành”,
220.
39. Xem Nguyễn Đắc Xuân, “Ngô Kha—Trịnh Công Sơn”, 238.
40. R.W. Apple Jr., “Buddhist Students Wreck American Center in Huế,”
The New York Times, 27.05.1966.
41. “Student Mob in Huế Burns American Consular Office,” The New York
Times, 01.06.1966
42. Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed, 131-132.
43. Hoàng Trọng Tấn, “Những năm
tháng sống trong nhà vườn Cậu Kha”, trong
Ngô Kha hành trình, 116.
44. Thái Ngọc San là người có nhiều thời gian bên Ngô Kha hồi năm 1968
nói rằng cuộc hôn nhân của Ngô Kha “vừa
tan vỡ). Xem bài “Bài ca bi
tráng của phong trào đô thị Huế” trong
Ngô Kha hành trình, 98.
45. Đỗ Lai Thủy, "Người đọc hông
đãng trí”, trong Ngô Kha hành
trình, 40.
46. Ngô
Minh, "Ngô
Kha, một
cõi tang bồng," 277.
47. Trịnh Công Sơn sáng tác các bài hát trong hai tập này sau cuộc Công
kích Tết năm 1968. Một tập nhạc in có tựa “Kinh
Việt Nam” xuất bản năm 1968; Một tập tương tự có tựa “Ta
phải thấy mặt trời” đoán chừng xuất bản năm 1969. Tôi nói "đoán
chừng" vì bản Ta phải thấy mặt
trời của tôi không có ngày xuất bản; tuy nhiên ở trang thứ hai có
các từ "hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 1969". Cả tập bài hát này đều
do Nhân bản xuất bản.
48. Tôi đã nói đến hai tập được đề cập o83 các ghi chú 6 và 17.
49. Nguyễn Duy Hiền, "Ghi chép
ngắn", 12.
50. Sđd., 12, chú thích 8.
51. Cao Thị Uẩn, "Thư đòi con",
trong Đứng dậy các số 65-66
(tháng 12 năm 1974): 163-164. Toàn bộ ấn bản của tạp chí này được in lại
ở Ngô Kha hành trình,
159-214. Số trang tham chiếu là theo bản in lại của tạp chí này.
52. Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công
Sơn: Có một thời như thế (TP
HCM: Văn Họcc, 2003), 79; và Nguyễn Duy Hiễn, "Ghi
chép ngắn", 11.
53. Lê Văn Thuyên, "Anh Ngô Kha
trong ký ức tôi", trong Ngô
Kha hành trình, 106.
54. Hoàng Hoa, "Nhớ Anh Ngo Kha",
trong Ngô Kha hành trình,
118-123.
55. Người Pháp gọi hòn đảo này là Poulo
Condore và giam các tù nhân chính trị người Việt trong Chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất. Năm 1970, Don Luce, cựu giám đốc Đội tình nguyện
quốc tế sau đó làm việc tại Việt Nam cho Hội đồng Giáo hội Thế giới, đã
dẫn đầu một phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến một khu nhà tù, nơi các tù
nhân bị xiềng trong các chuồng nhỏ năm nhân chín foot gọi là chuồng cọp.
(Luce sử dụng một bản đồ do một cựu tù nhân đưa cho anh ta để tìm các
chuồng này.) Đảo Côn Sơn, còn
gọi là Côn Lôn, cách tp Hồ
Chí Minh 143 dậm, một trong mười sáu hòn đảo nhỏ trong một quần đảo được
gọi là Côn Đảo.
56. Nguyễn Duy Hiển, "Ghi chép
ngắn," 14, chú thích 10.
57. Nguyễn Đắc Xuân, "Vài điều về
Liên Thành"; và Nguyễn Đắc Xuân, "Cái
chết của Ngô Kha" 220-222.
58. Nguyễn Đắc Xuân, "Cái chết
của Ngô Kha", 220.
59. Sđd, 220-221.
60. Liên Thành, Biến động miền
Trung, 474.
61. Nhit Huy, "Trường hợp Ngô Kha”,
Đứng dậy số 65-66 (tháng 12
năm 1974), 168.
62. Nguyễn Đắc Xuân, "Cái chết
của Ngô Kha", 221.
63. Nguyễn Đắc Xuân, phỏng vấn Dương Minh Long, "Nhà
Văn Nguyên Đắc Xuân một chứng nhân của những năm sáu mươi ở Huế”,
Đông Dương Thời Báo,
http://dongduongthoibao.net/view.php?storyid=561 (truy cập ngày 4 tháng
12 năm 2016).
64. Như đã giải thích trước đây, Liên Thành hối tiếc đã để cho Nguyễn
Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tướng, và Hoàng Phủ Ngọcc Phan thoát khỏi tay
mình hồi năm 1966.
65. Nhã Ca, “Giải
khan sô cho Huế” (Sài Gòn:
Đất Lành),
1971). Olga Dror đã trình xuất một bản dịch đoạt giải của cuốn sách này:
Nha Ca, Mourning Headband cho Huế (Bloomington: Indiana University
Press, 2014).
66. Nguyễn Đắc Xuân, "Đọc hồi ký
của Nhã Ca-Bình luận của người trong cuộc”,
Tạp chí Sông Hương, http: //
tapchisonghuong .com.vn / tap-chi / c112 / n881 /
Doc-Nha-Ca-hoi-ky-Binh-luan-cua-mot-nguoi-trong-cuoc.html (truy cập ngày
16 tháng 1 năm 2017). Bài viết này nguyên xuất hiện trong Tạp chí Sống
Hương, 235 (tháng 9 năm 2008).
67. Olga Dror chỉ ra rằng Nhã Ca đã sửa lỗi này trong một ấn bản về sau
của cuốn sách. Xem Olga Dror, "Lời giới thiệu của dịch giả", tại Nhã Ca,
Giải khan sô cho Huế, lii.
68. Nguyễn Đắc Xuân, "Hậu quả của
‘Cái chết’ của tôi”, http: /sachhiem.net/NDX/NDX020.php (truy cập
ngày 27 tháng 1 năm 2011). Bài viết này in lại trong Nguyễn Đắc Xuân,
Từ Phú Xuân đến Huế: Tự truyện
(TP. HCM:
Trẻ, 2012), 135-150.
69. Nguyễn Đắc Xuân, phỏng vấn Dương Minh Long.
70. Olga Dror mô tả Nhà Ca và chồng phải chịu đựng ra sao sau năm 1975
và cuối cùng đã đến Hoa Kỳ như thế nào trong "Lời giới thiệu của dịch
giả" cho Giải khan sô cho Huế,
xxi-xxiii).
71. Liên Thành, Huế thảm sát,
173. Nhóm này do một tổ chức lớn hơn gọi là
Mặt trận Liên minh các Lực lượng
Dân tộc Dân chủ và Hòa bình thành phố Huế chỉ đạo. Chủ tịch của tổ
chức này là Lê Văn Hảo, một giáo sư Đại học Huế đã rời Huế ngay trước
khi cuộc tấn công vào Huế bắt đầu. Hoàng Phủ Ngọc Tường là tổng thư ký
và Nguyễn Đắc Xuân chịu trách nhiệm tổ chức thanh niên. Xem Nguyễn Đắc
Xuân, phỏng vấn Dương Minh Long, và Liên Thành,
Huế thảm sát, 172-173,
688-689.
72. Liên Thành, Huế thảm sát,
363.
73. Sđd., 228-230.
74. Sđd., 215.
75. Alje Vennema, Thảm sát ở Huế của Việt Cộng, ((New York: Vantage
Press,
1976), 94.
76. Sđd., 23, 24, 94.
77. Sđd., 93-94.
78. Liên Thành, Huế thảm sát, 215; Liên Thành, Biến Động Miền Trung,
146.
79. Liên Thành, Biến động miền
Trung, 139.
80. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thụy Khuê phỏng vấn, ngày 12 tháng 7 năm 1997,
"Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc
Tường về sự kiện tại Huế, Radio France international,
http://thuykhue.free.fr/tk97/nchpngoctuong.html (truy cập ngày 21 tháng
10 năm 2016).
81. Ngô Minh, "Bi kịch của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Quà tặng xứ
mưa, https://ngominhblog.wordpress.com/author/ngominhblog/ (truy cập
ngày 31 tháng 12, 2016).
82. Mark Bowden, Huế 68: Một bước ngoặt của cuộc chiến tranh của Mỹ tại
Việt Nam (New York: Atlantic Monthly Press, 2017), 529.
83. Sđd., 572, ghi chú 83.
84. Sđd., 306.
85. Sdd., 586, ghi chú 11.
86. "Hoàng Phủ Ngọc Tường, của Nguyễn Đức Tùng phỏng vấn, tháng 6, 2008,
Tạp chí Da Màu, http://damau.org/archives/38341 (truy cập ngày 19 tháng
11 năm 2015).
87. "Lời cuối cho câu chuyện quá
buồn
https://www.facebook.com/notes/nguy%E1%BB%85n-quang-l%E1%BA%ADp/l%E1%
BB%9Di-cu%E1%BB%91i-cho-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n-qu%C3%A1-
bu%E1%BB%93n/306426446548435/?pnref=story (truy cập Ngày 14 tháng 2 năm
2018).
88. Cuộc phỏng vấn này có thể xem trực tuyến tại
https://www.youtube.com/watch?v=MaNr16RDrzQ (truy cập ngày 13 tháng 2
năm 2018).
89. Đông Ba là tên của ngôi chợ chính ở Huế trên đường Trần Hưng Đạo và
cũng là tên của một cửa vào Kinh thành trên đường Mai Thúc Loan. Không
rõ Hoàng Phủ Ngọc Tường đề cập đến khu vực nào.
90. “Hoàng Phủ Ngọc Tường “Lời
cuối cho câu chuyện quá buồn”.
91. S đd.
92. Bình phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về nỗi đau mà ông cảm nhận đối
với những vụ giết người phi lý của quân nổi dậy là một sự lặp lại nguyên
văn về những gì ông nói trong cuộc phỏng vấn của Thụy Khuê, phóng viên
của Radio France Internationale (RFI), ngày 12/7/1997. Xem "Nói
chuyện với Hoàng Phú Ngọc Tuàng về biến cố Mậu thân 1968 ở Huế”. Bản
ghi của cuộc phỏng vấn này có tại:
https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/stuv/thuy-khe/noi-chuyen-voi-hoang-phu-ngoc-tuong-ve-bien-co-mau-than-o-hue?
tmpl =% 2Fsystem% 2Fapp %
2Ftemplates% 2Fprint% 2F & showPrintDiaalog = 1
93. Đặng Tiến, "Trường hợp Hoàng
Phú Ngọc Tường”. Bài viết này có thể đọc tại trang web được đề cập ở
ghi chú 87.
94. Cao Thị Uẩn, "Thư đòi con".
Thư của mẹ Ngô Kha được in trong
Ngô Kha hành trình, 163-165. Bức thư của bà xuất hiện lần đầu trong
ấn bản đặc biệt của Đứng dậy,
một tạp chí in roéno do nhà báo tên Nguyễn Quốc Thái biên tập. Bản đặc
biệt này bao gồm năm mươi lăm trang và phát hành vào tháng 12 năm 1974.
Ấn bản chủ yếu gồm các bức thư của các nghệ sĩ và nhà văn ở Huế gửi đến
Ngô Khả. Mục đích của việc công bố các bức thư này là áp lực chính phủ
giải thích chuyện gì đã xảy ra với Ngô Kha. Trịnh Công Sơn đã viết một
trong các bức thư mà tôi thảo luận sau trong phần này.
95. Thu Hà, "Cái gì đã thuộc về
nguyên tắc thì không có ngoại lệ", Tuổi trẻ, ngày 18 tháng 4 năm
2003, http://www.tuoitre.com.vn (truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2004).
96. Nguyễn Đắc Xuân mô tả cuộc họp này tại
Trịnh Công Sơn: Có một thời như
thế”,
98-101.
97. Có hai tập bài hát khác nhau mang tên
Ca khúc Da Vàng được xuất
bản. Các ấn bản đầu có mười hai bài hát; các ấn bản sau có mười bốn bài
hát. Tôi có cả hai ấn bản mà tôi đã mua khi tôi ở Việt Nam vào cuối thập
niên 1960 và đầu thập niên 1970. Cả hai ấn bản dù với mười hai hay với
mười sáu bài đều có ngày ấn hành nhưng cả hai đều là ấn bản lần thứ năm.
Trịnh Công Sơn đã viết và biểu diễn nhiều bài trong các tập bài hát này
trước khi các tập được xuất bản.
98. Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công
Sơn, 73, 83.
99. Sđd., 101.
100. Hoàng Hoa, "Nhớ anh Ngô Kha",
120-121; Lê Văn Lân, "Ngô Kha,
Lẫy lừng
trên
bục giảng", 130; và Thái Ngọc San,
"Bài ca bi tráng", 99.
101. Ngô Minh, "Ngô Kha, một cõi
tang bồng" 279.
102. Liên Thành, "Trịnh Công Sơn
và các hoạt động nằm vùng”,
Khai phóng”, ngày 28 tháng 5 năm 2009,
http://khaiphong.org/showthread.php?1929-Tr%26%
237883%3Bnh-C%F4ng-S%26%23417%3Bn-v%E0-nh%26%237919%3Bng-ho%26%237841%
3Bt-%26%23273%3B% 26%237897%3Bng-n% 26%237857%3Bm-v%F9ng (truy cập ngày
1 tháng 11 năm 2016). Xem thêm Liên Thành, "Liên
Thành trả lời một số thắc mắc trong bài về Trịnh Công Sơn”,
Biến động miền Trung, Tháng
sáu 30, 2009,
http://biendongmientrung-lienthanh.blogspot.com/2009/06/lien-
thanh-viet-bai-2-ve-trinh-cong-son.html (truy cập ngày 9 tháng 1 năm
2017).
103. Xem ghi chú 5.
104. Nguyễn Đắc Xuân nói rằng Liên Thanh là một học sinh của Ngô Kha
trong "Cái chết của Ngô Kha"
220.
105. Liên Thành, Biến động miền
Trung, 140.
106. Liên Thành, Biến động miền
Trung, 338.
107. Sđd., 363.
108. Sđd.
109. Sđd., 364-365.
110. Sđd., 361.
111. Liên Thành, "Trịnh Công Sơn".
112. Trjnh Cung, "Trịnh Công Sơn
không quan tâm đến chính trị?" Tạp chí Da Mau,
http://damau.org/archives/
5055 (truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016); và Bằng Phong Đặng Văn Âu, "Nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn-một thiên tài đồng lõa với tội ác”, Tiền vệ, http:
//www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do;jsessionid=5B274D833247970BDBCC546A441CA824?action=viewArtwork&artworkId=8532
(truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016).
113. Hoàng Phú Ngọc Tường, "Tuyệt
tình cốc", Hợp Lưu 22 (1995), 52-58.
114. Thế Uyên mô tả chuyến thăm này trong một bài báo ông viết vào năm
1989. Xem Thế Uyên,
"Những
người từ Tuyệt Tình Cốc",
Sáng Tạo, https://santao.org/2016/07/14/nhung-nguoi-tu- tuyet-tinhcoc /
(truy cập ngày 21 tháng 11 năm 20016).
115. Hoàng Phủ Ngọc Phan, "Trịnh
Công Sơn và Những Hoạt Động Nằm Vùng", Saigon Echo, http://
saigonecho.info/main/lichsuvn/37-chientranhvn/9318-Tr% E1%BB% (truy cập
ngày 18 tháng 11 2016).
116. Liên Thành, Huế thảm sát,
227-230.
117. Hoàng Phủ Ngọc Phan, "Trịnh
Công Sơn".
118. Liên Thành, "Trịnh Công Sơn".
119. Tôi đề cập đến hai cuốn sách của Liên Thanh được trích dẫn trong
ghi chú 5.
120. Liên Thành,
Huế thảm sát.
121. Liên Thành, "Trịnh Công Sơn".
122. Sđd.
123. Toàn bộ nội dung của tạp chí này được in lại trong
Ngô Kha hành trình, 159-214.
124. Trịnh Công Sơn, "Lá
thư gửi cho người đang ở trong tù hay đã bị thủ tiêu" trong
Ngô Kha hành trình, 183-194.
Bức thư này nguyên được in trong
Đứng dậy các số 65-66 (1974), 107-114. Tuy nhiên các số trang trong
các ghi chú tiếp theo sẽ theo bức thư được in lại ở
Ngô Kha hành trình.
125. Bức thư được in lại trong các sách: Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công
Sơn, 153-162; và Lê Minh Quốc, biên tập, “Trịnh
Công Sơn: Rơi lệ ru người”, (Hà Nội: Phụ nữ, 2004), 26-35. Thư cũng
có trong các tạp chí: “Thơ”
(88), phụ trương Báo Văn Nghệ
(ngày 6 tháng 6 năm 2004) và
Thanh niên 178, (26/6/2004).
126. Nguyễn Đắc Xuân, “Sự thực
‘Thư gửi Ngô Kha của Trịnh Công Sơn”, trong
Ngô Kha hành trình, 217.
127. Trịnh Công Sơn, "Lá thư gửi
cho người", trong Ngô Kha
hành trình, 188-189.
128. Bữu Nam và Phạm Thị Anh Nga, biên soạn,
Ngô Kha hanh trinh, 159.
129. Sđd., 191-192, trích đoạn từ bản gốc.
130. Sđd., 190.
131. Nguyễn Đắc Xuân, "Sự thực ‘Thư gửi Ngô Kha’" trong
Ngô Kha hành trinh, 218.
132. Sđd.
133. Liên Thành, "Trịnh Công Sơn."
134. Cordillera Annamese (nguyên văn tiếng Anh), một dãy núi trải dài
song song với bờ biển từ tây bắc đến đông nam, tạo thành ranh giới giữa
Lào và Việt Nam.
135. "Nam Quan" là một cửa
khẩu trên biên giới Việt-Trung. "Cà Mau" là tên của một thành phố và
tỉnh ở cực nam của Việt Nam.
136. "Phú Quốc" và "Côn
Lôn" (còn gọi là Côn Sơn)
là những hòn đảo ở Biển Đông. (Ngô Kha bị giam ở đảo
Phú Quốc năm 1966.) Để biết
thêm về Côn Lôn xem chú thích 54. "Ba
Vì" là một dãy núi ở phía bắc. "Tam
đảo" là tên của một dãy núi khác ở phía bắc Việt Nam, một dãy với ba
đỉnh.
137. Đặng Tiến lập luận rằng việc mở các cuộc đàm phán này giúp thuyết
minh cho những viễn ảnh lộng lẫy của một Việt Nam hòa bình mà người ta
thấy trong các bài hát về sau của Trịnh Công Sơn. Xem Đặng Tiến, "Trịnh
Công Sơn: Tiếng hát Hòa bình”
Văn Học, 186 & 187 (2001), 190-191.
138. Martin Luther King có buổi thuyết giáo của mình mang tựa đề "The
drum major instinct", tại Nhà thờ Baptist Ebenezer ở Atlanta, Georgia,
ngày 4 tháng 2 năm 1968, hai tháng trước khi ông bị ám sát. Trong bài
giảng này, ông đã nói với giáo đoàn điều ông muốn mọi người nói về ông
trong tang lễ của mình. "Tôi muốn một ai đó ngày đó nói rằng Martin
Luther King (con) đã cố gắng yêu thương một ai đó. Tôi muốn quý vị nói
rằng ngày hôm đó tôi đã cố gắng hành sự đúng về vấn đề chiến tranh."
139. Lời bàn này cùng các ý kiến khác
rằng Trịnh Công
Sơn
đã cho thấy ông thuôc giới Phật
tử
có thể thấy trong câu "Nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn: ‘Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của hiện tại’”.
Lời nói đầu giải thích rằng những nhận xét này trước đó đã xuất hiện
trong tạp chí Nguyệt San Giác Ngộ.
Xem Lê Minh Quốc, biên soạn, Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru người (Hà Nội:
Phụ nữ, 2004), 202. Xem thêm bài phỏng vấn Thích Tâm Thiện, “Trịnh
Công Sơn và ảnh hưởng của đạo Phật trong ca khúc”, Vietnam Express,
ngày 1 tháng 11 năm 2002, http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2002/01/
3B9B83A0/ (truy cập ngày 14 tháng 2, 2005). Phiên bản trực tuyến này
dường như không phải là bài phỏng vấn đầy đủ vốn, được đang lần đầu trên
tạp chí Phật Giáo Giao Điểm
(ngày 3 tháng 3 năm 1999). Các phần của cuộc phỏng vấn này cũng có trong
"Nghĩ về thiền” trong
Trịnh Công Sơn: Tôi là ai là ai
..., Nguyễn Minh Nhật và đồng sự biên soạn (TP HCM: Trẻ, 2011),
212-214.
140. Thích Nhất Hạnh, Being space
(Berkeley, CA: Parallax Press, 1987), 12.
141. "Hãy yêu nhau đi"
142. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh
Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé (Tp Hồ Chí Minh: Trẻ, 2004),
41.
143. Việt Thanh Nguyễn, "Just Memory," 145.
144. Nguyên văn: “When buffaloes and cows fight, mosquitoes and flies
die.”
145. Việt Thanh Nguyễn, Nothing
Ever Dies, 280.
146. Sđd., 6.
147. Sđd., 290-291.
|