VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ VĂN HỌC NGA -
VIỆT
PHAN HỒNG GIANG
Từ đây ta dễ hiểu vì sao văn học Nga,
trong đó có phần tốt đẹp nhất của văn học Nga Xô viết, giữ vị trí đáng
kể trong tiến trình văn học thế giới từ hàng trăm năm nay.
Nhắc lại vài nét về mối quan hệ văn học
Nga – Việt có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn vai trò, vị trí của văn học
Nga đối với sự phát triển của nền văn học Việt
1. Văn học Nga Xô viết là yếu tố ngoại
sinh quan trọng bậc nhất trong sự phát triển của văn học cách mạng Việt
Năm 1923, nếu Nguyễn Ái Quốc không xúc động đến rơi nước mắt khi đọc
“Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin thì Việt Nam đã
không đi theo con đường Cách mạng tháng Mười. Lịch sử không có chữ “nếu”
và Việt Nam – trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể - trên thực tế đã và
đang đi theo con đường đó, kể cả khi quê hương Cách mạng tháng Mười đã
từ bỏ con đường này !
Từ cái gốc lịch sử cách mạng đó, văn học Việt
Từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn
học Xô viết, qua các bản dịch tiếng Pháp, đã đến tay các trí thức Việt
Nước Việt
Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra,
Chinh phủ rời thành phố lên chiến khu Việt Bắc. Sách vở, dù ít ỏi, cũng
theo lên rừng. Nhiều nhà văn đã cùng nhau kiên nhẫn nhân bản các tác
phẩm văn học Xô viết bằng cách chép tay, như nhà phê bình Hoài Thanh đã
có lần kể lại về việc làm của chính ông và đồng nghiệp.
Từ
năm 1948, các tác phẩm thơ của Simonov qua bản dịch tuyệt vời của Tố Hữu
đã lan truyền nhanh chóng. “Đợi anh về”, “Aliosa nhớ chăng, những con
đường
Năm 1950 Liên Xô công nhận nước ta,
quan hệ ngoại giao được xác lập; một thời kỳ mới mở ra cho sự phát triển
của quan hệ văn học Nga – Việt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những
dịch giả văn học Nga Xô viết đầu tiên. Năm 1951, dưới bút danh “Nguyễn
Du Kích” cụ đã dịch cuốn “Tỉnh ủy bí mật” của Phedorov.
Dù
chiến tranh chưa chấm dứt, liên tiếp các tác phẩm văn học Xô viết được
xuất bản : “Suối thép” của Seraphimovich,”Một
người chân chính” của Polevoi, “Cầu vồng” của Vasileva, bút ký chính
luận của Erenburg…
Năm 1954, chiến tranh kết thúc, miền
Bắc Việt
Nhiều tác phẩm văn học Xô viết trở thành hiện
tượng xã hội ở nước ta. Có thể kể ra sự kiện tập bút ký “Chuyện thường
ngày ở huyện” của Oveshkin đã gây ra tranh luận rộng rãi trên báo chí và
ở nhiều cơ quan trong suốt
tháng ba, tháng tư năm 1978. Hoặc trước
đó, vở kịch có vẻ như khô khan “Biên bản một cuộc họp” của Gelman, do
Nhà hát Kịch Hà Nội dàn dựng năm 1977, cũng đã từng làm xôn xao dư luận
công chúng…
Tên tuổi nhiều nhà văn Xô viết được
đông đảo độc giả yêu mến như Paustovski
với “Bông hồng vàng’, “Một mình với mùa thu”; Aitmatov với “Truyện núi
đồi và thảo nguyên”, “Con tầu trắng”; Gamzatov với “Daghestan của tôi”;
Bulgakov với “Trái tim chó”, “Nghệ nhân và nàng Margarita”; Grin với
“Cánh buồm đỏ thắm” v.v…
Những tác phẩm nổi trội nhất của văn
học Xô viết mang tính nhân văn – nhân loại
sâu sắc đã là những bài học nghề
nghiệp nhỡn tiền đối với nhiều nhà văn nước ta, là món ăn tinh thần quý
báu đối với hàng triệu độc giả Việt
2.
Sự thể hiện nghệ thuật đề tài
Việt
Tình cảm đặc biệt của nhân dân Liên Xô
dành cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc đã được thể
hiện đầy tính nghệ thuật trong nhiều tác phẩm của các nhà văn Xô viết.
Các tác phẩm này đã chiếm được
một vị trí đặc biệt trong nền văn học Xô viết nói chung.
Từ cuối thế kỷ XIX, nhà văn Nga Stanhiukevich
(1843 – 1903) đã viết nhiều bút ký về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp
của nhân dân Nam Bộ. Tháng 12
năm 1923, trên tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, nhà thơ Nga nổi tiếng Mandenstam
(1891 – 1938) đã viết phóng sự đặc sắc về Nguyễn Ái Quốc với tiên cảm
“từ Nguyễn Ái Quốc toát ra không phải là văn hóa châu Âu mà là văn hóa
của tương lai”…
Năm 1949, nữ thi sĩ Nga Adalit in tập
thơ “Đại dương phía đông” có bài thơ xuất sắc ca ngợi nhân dân Việt
Năm 1960 nhà thơ lão thành Antokonski,
người dịch “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch, viết tập sách “Sức mạnh
Việt Nam”. Năm 1961 nhà văn nổi tiếng Soloukhin cho in tập bút ký mượt
mà ”Những tấm bưu thiếp từ Việt
Từ khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân ở miền Bắc nước ta, trên khắp thế giới bùng lên
làn sóng phản đối Mỹ, ủng hộ nhân dân Việt
Các nhà văn Xô viết đi đầu trong sự
nghiệp dùng ngòi bút làm vũ khí của lương tri. Nhiều tác phẩm liên tiếp
được xuất bản : “Việt Nam chiến đấu” (1965) của Leonchiev; ”Việt Nam”,
“Giáng trả” (1966), “Nhân dân trong chiến tranh” (1972) của Jukov và
Sarapov; “Mười lăm cây số cách Sài Gòn”(1967), “Giông tố trên sông Hồng”
(1967) của Sedrov; “Hãy sờ vào trái bom” (1968) của nữ nhà văn, Anh hùng
Liên Xô Levchenko; “Tên lửa trên đầm sen” (1970) của Vasilev, “Tre đỏ
đại dương đen” (1977) của Parnov v.v… Các nhà viết kịch cũng góp mặt với
“Ngôi sao Việt
Xuất hiện nhiều trường ca có giá trị
như “Biên giới cháy xém” (1968) của Lukonhin;
“Hồi ức Việt
“Không nỗi đau nào riêng của ai” (thơ
của Simonov) đã trở thành châm ngôn sống của mọi người có lương tri trên
thế giới.
Các tác phẩm viết về đề tài Việt
3.
Văn học Nga Xô viết
và sự góp mặt của văn học Việt
Chúng
ta đều biết tiếng Việt không phải là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Các tác phẩm văn
học Việt Nam vì thế mà cũng phải chịu cảnh thiệt thòi khi phần lớn bị
“giam hãm” trong phạm vi mảnh đất hình chữ S nhìn ra Biển Đông. Từ trước
đến nay mới có một vài tác phẩm như “Truyện Kiều” được dịch ra một số
ngôn ngữ nước ngoài. Đại bộ phận văn học Việt
Riêng ở điểm này, chúng ta mới thấy các
nhà văn, nhà dịch thuật của nước Nga đã góp phần to lớn để cho văn học
Việt Nam đàng hoàng góp mặt trên tiến trình văn học thế giới. Bởi tiếng
Nga là một trong 6 ngôn ngữ được
Liên Hợp Quốc yêu cầu sử dụng phổ biến chính thức. Thông qua tiếng Nga,
nhà văn và độc giả nhiều nước, nhất là các nước Đông Âu, có cơ hội làm
quen với văn học Việt
Nga
là nước duy nhất trên thế giới đã lên kế hoạch tổng thể dịch các tác
phẩm văn học Việt Nam.Trong vòng 5 năm, từ
năm 1979 đến năm 1984, các nhà văn Nga đã dịch và xuất bản bộ
sách “Văn học Việt Nam” gồm 13 tập đầy đặn, giới thiệu khá đầy đủ các
tác phẩm tiêu biểu của văn học nước ta (chưa tính đến văn học Việt Nam
cộng hòa và văn học Việt Nam hải ngoại) trong khoảng từ những năm 30
đến cuối những năm 70 của thế kỷ trước.
Ta gặp ở đây các tên tuổi văn xuôi quen
thuộc như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn
Tuân, Tô Hoài… đến Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hữu
Mai, Ma Văn Kháng, Chu Văn, Nguyễn Văn Bổng, Dũng Hà, Thu Bồn, Đỗ Chu…,
các nhà thơ tiêu biểu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy
Cận, Lưu Trọng Lư, Chính Hữu, Nông Quốc Chấn, Hữu Thỉnh, Bằng Việt,
Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Nguyễn Đức Mậu…
Trong
công việc nặng nề này, chúng ta cần nhớ đến đóng góp quý báu của các nhà
Việt
Gần đây, được sự chu cấp tài chính của
Quỹ Tổng thống Nga, Việt
***
Nói cho đúng ra, mối quan hệ văn học
Nga – Việt không chỉ rặt một mầu hồng.
Trong nền văn học Nga Xô viết trước đây đã tồn tại không ít những
khuyết tật. Cái gọi là “phương pháp sáng tác ưu việt
hiện thực xã hội chủ
nghĩa” giờ không còn ai dám
mạnh miệng nhắc đến - ở nước Nga cũng như ở nước ta. Có không ít tác
phẩm, được chỉ đạo bởi các quan niệm mang tính chính trị - xã hội học
dung tục, mang đậm tính minh họa giống như nhiều tác phẩm văn học nước
ta trước đây mà cuối năm 1987,
cố nhà văn đáng kính Nguyễn Minh Châu đã rành rẽ đọc “lời ai điếu” !
Trong hoạt động của giới nhà văn
Xô viết cũng không ít khi bị nhiễu loạn bởi những kẻ “bảo hoàng hơn cả
nhà vua”, luôn sẵn sàng
chụp mũ đồng nghiệp, ra sức diệt trừ những tác phẩm trung thực. Căn bệnh
chết người này, tiếc thay, có một thời cũng đã lây lan sang làng văn
nước ta…
Còn nhiều, nhiều nữa những tác động
không mong đợi từ phía nước bạn. Nhưng đó có lẽ sẽ là chủ đề của một bài
viết khác.
Xin được tạm dừng ở đây.
3/11/2017
P.H.G.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 4-11-17 |