ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ
VỀ MINH TRIẾT VÀ TƯ
DUY MINH TRIẾT
PHẠM
KHIÊM
ÍCH
Minh triết
có ich gì cho hôm nay?Để trả lời câu hỏi lớn này,không thể không làm rõ
đặc điểm của Minh triết và tư duy Minh triết.Tại Hội thảo khoa học Kỷ
niệm mười năm thành lập Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết ngày
30-12-2017,tôi đã trình bày đôi điều suy nghĩ về Minh triết và tư duy
Minh triết :
1. Điều thứ
nhất: Tư duy Minh Triết là
Tư
duy
Lưỡng
hợp
Triết gia
Lương Kim Định,gọi tắt là Kim Định(sinh ngày 15-6-1914 tại Nam Định-mất
ngày 25-3-1997 tại Carthaye Missouri,Hoa Kỳ) có cống hiến lớn lao cho
triết học và Minh triết với 45 đầu sách, trong đó có 32 cuốn đã in với
hơn 7000 trang. Nhưng nếu tôi không lầm thì chỉ có một lần
Cụ để
tâm bàn bạc,phân tích sâu sắc về đặc trưng của Minh triết và tư duy Minh
triết. Đó là vào tháng 8 năm 1988 khi Cụ đã 74 tuổi, tham gia Đại hội
Triết
học
Thế
giới (The World Congress of Philosophy) lần thứ XVIII tại Bringhton (Anh
quốc). Trong bài Diễn văn tại
Đại
hội này có tựa đề:
"Di sản văn hóa Việt Nam đối với đời sống hiện đại",
Cụ
nói:
"Di sản văn
hóa Việt Nam nằm gọn trong chữ “Việt” với ý nghĩa siêu việt, là nhảy từ
hai thái cực vào một:
từ Trời cao Đất thấp nhảy vào
Người.
Các nhà nghiên cứu về Đông Nam Ấ thấy nét đặc trưng của miền này là
lưỡng hợp tính (dual-unit)
thì chính là nó. Nét đó là kết quả của cái nhìn riêng biệt không xem
hai đối cực như hai thực thể chống đối nhau, tiêu diệt nhau,
mà như là hai chiều bổ túc hỗ tương của một thực thể. Và đó cũng chính
là
Minh
triết, vì Minh triết là gì nếu không là khả năng hội nhập hai thái cực.
Nói theo thực hành thì
Minh
triết là nghệ thuật tối cao xếp đặt việc nhà việc nước thế nào để đem
lại hạnh phúc cho mọi người. Vậy văn hóa Việt Nam đã làm được như thế
xuyên qua gần năm ngàn năm lịch sử. Trong quãng dài lâu vô địch đó, nó
đã không hề mắc một mâu thuẫn nào: không đẳng cấp, không giai cấp, không
chủ nô, vì toàn dân đều được tham dự vào tài sản quốc gia, cũng như mọi
người được tự do tư tưởng, tự do tôn giáo. Cả đến hơn 50 sắc dân thiểu
số với những tin tưởng rất khác nhau mà không hề xảy ra xích mích về
đàng tôn giáo. Đó là di sản văn hóa Việt Nam, có thể gọi di sản đó là
nền
Triết
lý
Thái
hòa."(Kim Định.Gốc rễ Triết
Việt.An Việt,Houston,1988)
Trong một
dịp khác, trả lời câu hỏi
Minh
triết là gì? Cụ viết: "Nói theo siêu hình thì khả năng hội nhập hai đầu
thái cực lại một. Nói theo kiểu thông thường thì
Minh
triết là nghệ thuật tối cao xếp đặt cuộc sống thế nào cho
mọi người được hạnh phúc."
Muốn được
hạnh phúc, con người phải sống theo nguyên tắc lưỡng
hợp,
Nho gọi là lưỡng nghi. Tức là phải thích nghi với hai chiều trái ngược
như
Tròn
với
Vuông,
như
Trời
với
Đất.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hòa giải hai dòng trái ngược đó. Hễ hòa
giải xong thì có
nét song
trùng, rồi có triết lý nhân sinh, tức là thứ triết hợp cho con người.
Theo
Cụ ,
nét
song
trùng,
hay lưỡng hợp chính là "Hạt ngọc quý trọng nhất cho con người".
Trên cơ sở
tư duy lưỡng hợp,
Cụ
phê phán quyết liệt tư duy lưỡng phân và quan điểm nhị nguyên đối kháng,
với nhiều dạng thức khác nhau,đặc biệt là đấu tranh duy vật với duy
tâm,giai cấp với giai cấp. Nhị nguyên là lối nhìn sự vật như những thực
thể tách rời, cô lập, nước là nước, lửa là lửa,
hai bên riêng biệt hẳn, đến nỗi đối
kháng
buộc phải chọn một, bỏ một. Nhị nguyên đối kháng xem hai đối cực như hai
thực thể chống đối nhau, tiêu diệt nhau. Chính vì nhị nguyên đối kháng
này mà "Triết học đã sai lầm hàng mấy chục thế kỷ", gieo
máu và nước mắt cho nhân loại và giết chết cả Minh triết.
Làm gì có
Minh triết trên nền tảng tư tưởng duy vật chống duy tâm,đấu tranh giai
cấp và chuyên chính vô sản?Minh triết làm sao sống nổi dưới gầm trời của
chế độ toàn trị?Đây là vấn đề lớn cần được bàn thảo trong dịp khác.
2. Điều thứ
nhì: Từ Tư duy Lưỡng hợp đến
Tư
duy Phức hợp.
Để nhận biết
thực tại, nhất là thực tại Con người, cần có quan niệm mới, khám phá
mới, tư duy mới. Đó là
Tư
duy phức hợp, có khả năng thấu hiểu tính phức hợp của thực tại, tính
phức hợp của Con người. Edgar
Morin (1921-
) nhà tư tưởng của
nước Pháp đương đại chính là "người cha đẻ của
Tư
duy phức hợp". Ông kể lại quá trình hình thành tư duy phức hợp từ cuối
những năm 1960, dưới sự tác động của lý thuyết thông tin, điều khiển
học, lý thuyết hệ thống và lý thuyết tự
- tổ
chức như thế nào.
Tính phức
hợp, hay cái phức hợp (la complexité,
le complexus) được hiểu như là những gì liên kết lại với nhau, đan dệt
cùng nhau. Tính phức hợp liên quan đến khối lượng khổng lồ những tương
tác giữa các bộ phận hợp thành gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên "tấm dệt
chung" (tissu commun) không thể phân cách và quy giản
được. Con người là
một
siêu phức hợp. Riêng bộ não người đã gồm hơn 10 tỷ tế bào. Mọi hệ thống
tự -
tổ chức, kể
cả những tổ chức được gọi là đơn giản nhất cũng đều được kết hợp bởi một
số lượng rất lớn các đơn vị và tương tác của chúng, chứ không thể hiểu
như những thực thể được cấu thành bởi vài ba bộ phận đối kháng,
hoặc là hợp nhau.
Cùng với
việc phát triển
Tư
duy phức hợp, các nhà khoa học, công nghệ và các nhà hoạch định chính
sách chú trọng nghiên cứu và triển khai khoa học phức hợp, được mệnh
danh là "khoa học của thế kỷ XXI". Khoa học phức hợp (Complexity
Science) là môn khoa học nghiên cứu về các hệ thống phức
hợp.
Một hệ thống gọi là phức hợp nếu nó chứa nhiều thành phần con tương tác
với nhau và nếu hệ thống đó lại biểu hiện những tính chất, những lối
hành xử mà chúng ta không thể suy ra một cách hiển nhiên từ tương tác
của những thành phần cấu thành nó.
Đặc trưng
quan trọng nhất của hệ thống phức hợp là hiện tượng
đột sinh (emergence).
Đây là hiện tượng xuất hiện những quy luật,những hình thái, những trật
tự mới từ hiệu ứng tập thể của các tương tác giữa các thành phần của hệ
thống. Như vậy các hiện tượng đột sinh không phải là một tính chất nội
tại của các thành phần con, mà là những tính chất của hệ thống được xét
một cách toàn diện. (Xin xem bài
"Tư
duy phức hợp và vai trò của nó trong xã hội đương đại"
của Phạm Khiêm Ích).
Trên cơ sở
tư duy phức hợp, Edgar
Morin đã xây dựng cả một khoa học phức hợp liên ngành về
Con
người, được gọi là
Nhân
học phức hợp,
với quan điểm
Tam
vị nhất thể của Con người:Cá
nhân,
Xã
hội,
Giống
loài
(Xin xem bài giới thiệu của Phạm Khiêm Ích về
Nhân học phức hợp).
Nhân học
phức hợp là điều kiện và cơ sở của
Đạo
đức học phức hợp,
cho phép nhận rõ ba nhánh của
Đạo
đức học: Tự
thân
đạo đức, đạo đức xã hội, đạo đức nhân loại. Đạo đức học phức hợp thừa
nhận tính phức hợp của
Cái
thiện
và tính phức hợp của
Cái
ác,
thừa nhận tính tất yếu của
Liên
kết
và
Tự
liên kết,
theo nghĩa rộng nhất của từ này: Tự liên kết với thân thuộc của ta;
Tự
liên kết với người khác,
Tự
liên kết với Trái Đất - Tổ quốc chung.(Xin xem bài giới thiệu của Phạm
Khiêm Ich về Đạo đức học phức hợp)
Quan niệm
trên đây về
Con
người và
Đạo
đức
Liên
kết
Con
người cho phép Edgar
Morin tạo dựng nên một Minh triết
như là Nghệ thuật sống (L'art
de Vivre).
Trả lời Minh
triết là gì? Edgar
Morin viết: "Minh triết được đồng nhất hóa với
Nghệ
thuật sống,qua đó lý trí cai quản cuộc đời bằng cách ngự trị,
hoặc loại bỏ những đam mê vốn là cội nguồn của ảo giác và
lầm lẫn".
Con người có
nhiều cách sống. Sống
rỗng tuếch là sống thiếu chiều sâu, cũng là thiếu
Minh
triết. Phải nâng hoạt động sống của con người lên hàng nghệ thuật, nghĩa
là phải khéo kết hợp lý trí với tình cảm, trí tuệ với đam mê. Những
nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy mọi hoạt động duy lý của trí tuệ
đều kèm theo tình cảm. Tình cảm vốn có thể chắc chắn đủ sức làm cho lý
trí bất động, thì cũng là nhân tố duy nhất có khả năng huy động được lý
trí. Bởi vậy "Ý tưởng về minh triết đã tự phức hợp hóa": nó không loại
trừ cảm xúc nữa, mà còn nhất thể hóa với cảm xúc. Ta biết rằng đam mê có
thể gây mù lòa, nhưng nó cũng có thể soi sáng lý trí
nếu đảo lại lý trí soi sáng nó. Người ta cần đến trí
thông tuệ duy lý, nhưng cũng cần tình cảm, thương cảm, đam mê.
Trên thực
tế, ý tưởng về Minh triết nếu chỉ quy về ý tưởng
lý trí thì sẽ mang một mâu thuẫn. Cuộc đời thuần túy duy lý thì
tới mức giới hạn chỉ là thiếu vắng hẳn sự sống: Chất lượng sống
phải
bao gồm xúc động, đam mê, hưởng thụ,
lạc thú. Quay lưng với chất lượng sống làm gì còn
Minh
triết nữa? Không thể loại bỏ cái
đam mê,
phi lý,
điên rồ. Bởi vì điên rồ cũng là đặc tính của con người.
Con người (homo) là khôn/điên rồ
(sapiens/demens). Con người không chỉ biết suy lý, hữu lý, tính
toán, mà cũng còn bị đưa tới chỗ đam mê, thái quá, lầm lẫn.
Cho
nên
ta
phải chấp nhận thực hiện thế đối hợp logic Lý trí
Đ
Đam mê, nghĩa là luôn lấy
lý trí làm ngọn đèn canh chừng, tức là bao giờ cũng phải thắp sáng một
ngọn lửa nhỏ của ý thức duy
lý
ngay khi niềm đam mê lên tới mức cao độ. Tức là sống mà không bao giờ để
mình tự xuống cấp thành "một trò chơi âm - dương" giữa lý trí với đam mê,
mà tại đó một bên hễ tăng lên thái quá sẽ kích động bên kia tăng theo.
Đây chính là văn minh hóa các đam mê, để chúng không trở thành dã man,
không hủy hoại ta, song cũng không hủy hoại chúng và biến chúng thành
"lý trí".
Đối
hợp logic
Lý
trí Đam mê chính
là Nghệ thuật sống. Con người
luôn sống với hai trạng thái :
"con người văn xuôi" (homo prosaicus) tức là đời thường,làm ăn,tính
toán,cạnh tranh, và "con người
thơ ca" (homo poeticus) tức là khát vọng chất thơ của cuộc đời vốn
là cường độ trong sự tham gia, đồng cảm, tình yêu và có xu hướng tiến
đến lạc thú xuất thần.
Sống kiểu "văn
xuôi" chỉ là sinh tồn. Còn sống thật sự là sống với "chất
thơ" kỳ diệu. Trạng thái thơ ca mang trong nó chất lượng cuộc sống.
Nó có thể cảm nhận sự diệu kỳ của quang cảnh tự nhiên ngoạn mục, của
buổi bình minh hoặc
chiều tà,
dáng bay của một con chim, con chuồn chuồn, nhìn ngắm một bông hoa,một
khuôn mặt, một tác phẩm nghệ thuật…
Nghệ thuật
sống không thể chấp nhận được quy tắc xác lập sẵn,
kiểu "nhất thành bất
biến".
Nó chạm trán với quy luật tối cao của sự sống: mọi thứ hễ không tự tái
sinh ắt phải suy giảm. Nó cần đến một sự đa tái sinh thường trực.
3. Điều thứ
ba:
Hiện tại và
Tương
lai của Minh triết.
Nhà triết
học Pháp Luc Ferry đặt vấn đề: "Chúng ta có thể khai thác từ các Minh
triết cổ xưa,
trong khi vẫn sống ở ngang tầm thế kỷ XXI". Theo ông đã đến lúc có thể
nghĩ tới "Xây dựng một Minh triết hiện đại và thế tục". Ông trình bày "Học
thuyết cứu rỗi mà không có Thượng đế" (Doctrine du salut sans
Dieu)
và "Minh triết của tình yêu" (Une
sagesse de l'amour). Minh triết của tình yêu này phải được tạo dựng bởi
mỗi
người trong chúng ta, một cách lặng lẽ. Nó là sự hoàn thành mỹ mãn của
một chủ nghĩa nhân văn, rốt cuộc đã rũ bỏ được ảo tưởng của siêu hình
học và của tôn giáo.
GS. François
Jullien, nhà triết học Pháp khá quen biết ở Việt Nam, coi Minh triết như
là "một thể tạng khác của triết học" không thấp hơn cũng không cao hơn
triết học, mà là "hạ tầng của triết học”. Hạ tầng này là cái nền cho sự
phát triển của triết học. Triết học phải trở về nó, lấy tài lực của nó
để tiếp tục phát triển. Triết học một khi đã tách khỏi
Minh
triết thì mất mát rất nhiều.
GS.François
Jullien nhấn mạnh rằng cần phải "kéo
Minh triết ra khỏi cái chân trời huyền bí của
nó". Đối với những ai đang "ảo tưởng về phương Đông" muốn tìm cái phi lý
của phương Đông để đổi lại cái khủng hoảng duy lý của phương Tây, ông
cho rằng như thế là không đúng. Phương Đông là duy lý theo cách của nó.
Hơn nữa rất cần phải chống lại "cơn lũ lớn của những chủ nghĩa phi lý
đang đe dọa tương lai của chúng ta".
Cộng đồng
quốc tế rất quan tâm đến Minh triết và mối quan hệ không thể tách rời
giữa Minh triết với triết học. Đại hội Triết học
Thế
giới lần thứ XXIII gần đây nhất họp tại Athène
Hy Lạp tháng 8 năm 2013 với chủ đề
"Triết học với tính cách là sự
khảo sát và lối sống" (Philosophy as Inquiry and Way of Life). Phiên
họp toàn thể của Đại hội đã thảo luận đề tài
"Triết học với tính cách là Minh
triết thực hành" (Philosophy as Practical Wisdom). Đây là cái nhìn
mới đối với cả triết học lẫn Minh triết.
Minh triết
thực hành được hiểu như là phẩm chất quan trọng của con người, bao gồm
kinh nghiệm cá nhân cùng với sự đồng cảm và trí tuệ. Minh triết thực
hành không đơn thuần chỉ là kỹ năng,mà cũng còn là năng lực suy
tư về
những mục tiêu đúng và quyết định về cách thức đạt đến những mục tiêu
ấy
phù hợp với mục đích cuộc sống.
Ý tưởng này
đã được thể hiện nổi bật trong cuốn sách
Minh triết thực hành (Practical
Wisdom.New York,2010) của hai giáo sư Barry Schwartz
và Kenneth Sharpe trường Đại học Swarthmore ở Pennsylvania (Hoa Kỳ).
Cuốn sách có phụ đề: Phương hướng
đúng để làm điều tốt(The Right Way to Do the Right
Thing).
Cuốn sách khẳng định rằng: Đa số chúng ta đều mong muốn thành đạt. Mà số
đông trong chúng ta vẫn mong muốn làm điều tốt. Thế nhưng ta thường quên
rằng phương hướng
đi
tới thành đạt là bằng việc làm điều tốt.
Điều mà thế
giới hiện nay có nhu cầu là cần thêm nhiều con người đủ phẩm chất
Minh
triết thực hành, và thêm nhiều định chế cho phép con người được thể
hiện, bộc lộ phẩm chất đó. Cuốn sách trình bày cho chúng ta biết cách
nào xác định và trau dồi những phẩm chất ấy. Nó chỉ ra rằng mọi người
chúng ta ai cũng có thể đủ năng lực vươn tới Minh triết, bất kể tuổi tác
bao nhiêu, vị thế trong cuộc sống thế nào. Minh triết chính là công cụ
hữu hiệu để
ta
phát huy năng lực
Minh
triết trong thời buổi phức tạp và lẫn lộn thực hư, thật giả này.
Cuốn sách
Minh triết thực hành đã được
Chương
trình Tầm nhìn UNESCO và Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết tổ chức
dịch và xuất bản, do NXB Tri
Thức
ấn hành trong năm tới.
Minh triết
có lịch sử của nó. Chỉ có điều viết về lịch sử triết học thì nhiều, còn
viết về lịch sử của Minh triết thì rất hiếm hoi. Ông Mikhail
Epstein
là GS trường Đại học Emory (Hoa Kỳ) đồng thời là GS trường Đại học
Durham (Anh quốc) là một trong những người đi tiên phong trong nghiên
cứu lịch sử của Minh triết và phác họa tương lai của nó trong tác phẩm
Tuyên ngôn về Nhân văn học
biến đổi(The Transformative
Humanities.A Manifesto.London, 2012)
Thông thường
Minh triết vẫn được định nghĩa là những điều khác biệt với kỹ năng thực
hành, cũng như với tri thức lý luận. Từ
"Sophia" trong tiếng Hy Lạp
lúc ban đầu bắt nguồn từ kỹ năng, kỹ xảo thuộc về nghề thủ công. Chẳng
hạn, trong truyền thuyết Homer, ta vẫn tìm được đức tính
"Sophia"
trong bàn tay một chuyên gia tinh thông về nghề mộc. Khái niệm này dần
dần chuyển từ lĩnh vực thực hành sang lĩnh vực đạo đức, sau đó sang lĩnh
vực lý thuyết,
bao gồm tri thức về nguyên lý đại cương. Nhà hiền triết Socrates
không lấy kỹ năng, kỹ xảo,
mà chọn tri thức làm cội nguồn của Minh triết. Những tri thức đặc biệt
ấy liên quan đến việc cai
trị xã hội và định hướng cuộc sống bản thân đi đôi với mục tiêu cao
thượng.
Triết học
chưa phải là Minh triết, mà chỉ là
Yêu mến(Philo)Minh triết(Sophia).
Chính là nhờ những thực hành cụ thể mà ta có thể đi từ triết học sang
Minh triết.Vì vậy triết học có tư cách là Minh triết thực hành.
Ngày nay
triết
học phải trở
lại
với
Minh triết.Triết
học là một trong “Những bộ môn
Minh triết” (Sophian Disciplines) rất đa dạng. Ở đây từ căn vốn
là
chữ “Sophia”,
tức là Minh triết. Các bộ môn Minh triết đều xem xét đối tượng nghiên
cứu của mình liên quan đến cái nhìn tổng thể (holistic) về vũ trụ. Các
bộ môn Minh triết nghiên cứu theo quan điểm “Đa
Minh triết luận" (Polysophianism)
và
hợp thành
một "Minh triết quyển"(Sophiosphere)
với tư cách là tổng hòa mọi hình thức của Minh triết,bao gồm cả
Trí quyển (Noosphere:Teilhard
de Chardin,V.Vernadsky) và Ký
hiệu quyển (Semiosphere:Yu.Lotman).
Mạng
Internet
đã làm thay đổi căn bản những tiêu chí của hoạt động sáng tạo: Lý tưởng
triết học thời đại ông Gutenberg xưa kia là sáng tác khảo luận cá nhân
với tính cách một công trình hoàn chỉnh và hoàn hảo, thế nhưng bây giờ
mục tiêu của
Internet
là sáng tạo một môi trường trí tuệ hơn là một sản phẩm đã hoàn tất.
Ngày nay,
cũng giống như trong kiến trúc đô thị, thay cho cách kiến
thiết
những kết cấu đơn lập, lẻ loi, ta nên sáng lập một "Minh
triết quyển" với tính cách môi trường các không gian và nơi trao đổi
về logic thường tồn tại ở ngoài kiến giải của ta, và cố nhiên là ngoài
quy cách sinh hoạt của ta, cách
thức mới của dân cư sống giữa môi trường đô thị phức hợp. Làm theo cách
ấy không có ý xóa bỏ sạch trơn những công trình cổ kính vẫn còn giữ được
đến nay, mà cần kết nối lại bằng vô số tuyến giao lưu, cầu treo, cầu
vượt, thang máy,
với hành lang nhiều tầng, làm cho dáng vẻ bớt được cái ngạo nghễ đồ sộ
so với thời trước. Tác giả
"Minh
triết quyển"
là GS.Mikhail Epstein, với tư cách người cung ứng cả một "mạng sinh
triết" nên liên tục sáng tạo và duy trì một môi trường đã được thiết kế,
có quan điểm, chưa từng được biết đối với bản thân
vì nó vượt quá tầm nhìn viễn
cảnh của cá nhân.
Liệu đây có
thật sự là tương lai của Minh triết hay không, có lẽ cần nhiều thời gian
để kiểm chứng.
Ngày 21-12-2017
|