THUYẾT MÁC XÍT
VÀ SỰ GIẢI THÍCH LỊCH SỬ

 
BẰNG NGUYÊN NHÂN KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

Nguyễn Thế Anh

Nhà sách Khai Trí, Tập san Sử Ðịa, N° 2 (1966), pp. 29-34.

 

Học thuyết của Karl Marx đã xuất hiện vào một giai đoạn rất sôi nổi của lịch sử Tây phương, giai đoạn các cuộc cách mạng giữa thế kỷ thứ XIX; vì thế, học thuyết này đã tìm cách giải thích tình trạng xã hội bằng những nguyên nhân kinh tế, cho là cách mạng là kết quả tự nhiên của xã hội tư bản, xã hội bị kỹ nghệ hóa[1].

Với Marx, cần lao đối với con người là phương sách để con người tự giải phóng trước thiên nhiên, để con người khuất phục thiên nhiên. Vì con người làm việc, đã giác ngộ được rằng mình là một phần tử của một xã hội: con người là một con người lao động, bên cạnh những con người lao động khác. Nhưng trong xã hội mà Karl Marx chứng kiến, lại có một sự mâu thuẫn: cần lao không giải phóng, trái lại lẹ thuộc con người. Các cơ quan sản xuất, đất ruộng hay xưởng máy, không thuộc quyền sở hữu của người lao động; thêm nữa, người lao động cũng không được hưởng cả những lợi tức của các sự sản xuất nữa. Con người bắt buộc phải bán sức cần lao của mình, nghĩa là phải tha hóa sức cần lao ấy để làm lợi cho người khác. Xã hội hiện đại như thế đã dùng cần lao làm một phương sách để nô lệ hóa.

Xã hội tư bản đã đưa tới sự tha hóa này khi nó tới giai đoạn kỹ nghệ hóa. Ở giai đoạn này, chúng ta chứng kiến một sự đại sản xuất, và chế độ kinh tế này tạo nên một giai cấp nô lệ càng ngày càng lớn, và hiểu là mình bị lệ thuộc: giai cấp vô sản. Vì ý thức được tình trạng và địa vị của mình, giai cấp vô sản này sẽ làm cho sự tranh đấu giữa các giai cấp trở nên nghiêm trọng hơn, và chính giai cấp vô sản này sẽ đưa tới cách mạng. Giai đoạn tư bản kỹ nghệ là giai đoạn cuối của một sự diễn tiến lịch sử đã đưa xã hội loài người đi từ chế độ nô lệ tới chế độ phong kiến, rồi tới chế độ tư bản trước thương mãi, sau kỹ nghệ. Thế giới của thế kỷ thứ XIX, cùng một lúc nó bị kỹ nghệ hóa, đã đi tới giai đoạn cách mạng, giai đoạn ở đó quyền tư hữu bị phế trừ.

Cuộc cách mạng của giai cấp vô sản này phù hợp với sự diễn tiến bất khả kháng của lịch sử, với sự vận chuyển biến chứng của lịch sử, nghĩa là sự đấu trang giai cấp. Marx viết là: “Giai cấp trung lưu đã giữ trong lịch sử một vai trò rất là cách mạng. Ở khắp những nơi nào nắm được chính quyền, giai cấp trung lưu đã phá hủy tất cả mọi điều kiện phong kiến, thị tộc…” Nhưng làm như vậy, “giai cấp trung lưu đã không chỉ rèn luyện những khí giới sẽ diệt vong giai cấp này: nó lại còn sản xuất những con người sẽ sử dụng khí giới ấy – các thợ thuyền ngày nay, các người vô sản”[2]. Cuộc cách mạng hoàn toàn là một sự đấu tranh giai cấp mà giai cấp vô sản cầm đầu để chống lại giai cấp trung lưu; sự đấu tranh này bắt đầu từ tình trạng mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế. Trong quyển La lutte des classes en France (1848-1850), viết vào năm 1850, Marx cho là cuộc cách mạng tháng 2 năm 1848 ở Pháp đã làm giai cấp vô sản, giai cấp tiểu tư bản, dân quê và giới trí thức chống lại giai cấp mà Marx gọi là giai cấp quý phái tài chính (giới ngân hàng và kinh doanh).

* * *

Thuyết mác xít như thế đã được thiết lập với những tiêu chuẩn lý tưởng (ideal typen) – chế độ tư bản, lao động vô sản, giai cấp xã hội, sản lực… - để giải thích các hiện tượng xã hội liên hệ với cuộc cách mạng kinh tế ở Âu châu vào giữa thế kỷ thứ XIX. Thuyết này đã hướng các sử gia vào khu vực phức tạp của các giải thuyết kinh tế; nhờ có nó, người ta đã ý thức được một cách xác đáng hơn các sự vận chuyển kinh tế và xã hội. Sử giai nghiên cứu sử kinh tế ngày nay đã lợi dụng được tư tưởng của Karl Marx. Như E Labrousse[3] đã nối liền các cuộc cách mạng ở Âu châu vào tiền bán thế kỷ thứ XIX với thuyết tuần hoàn (théorie cyclique) của các giai đoạn kinh tế: có hai giai đoạn luân phiên nhau, giai đoạn A, khi giá cả tăng và kinh tế thịnh vượng, và giai đoạn B, khi giá cả hạ, kinh tế trầm trệ, tình trạng của giới thợ thuyền rất khó khăn, nhiều khi đen tối. Ở Âu châu, giai đoạn 1815-1850 là một giai đoạn B, vì thế có thể giải thích được các cuộc cách mạng.

Như thế, thuyết mác xít đã giữ một vai trò phong phú, bằng cách chỉ cho sử gia thấy là các khía cạnh kinh tế của lịch sử có thể có tính cách hệ trọng, và khuyến khích sử gia đi tìm những khía cạnh ấy. Song thuyết mác xít chỉ phong phú nếu nó hiến cho ta những giả thuyết cần được chứng minh; nó phản sử học khi nó trở thành một phương pháp để giải thích mọi thời đại lịch sử.

Tại vì Marx coi sự diễn tiến xã hội như là một sự diễn tiến tự nhiên, phụ thuộc với những quy tắc không những độc lập đối với ý chí của con người, nhưng lại còn quy định cả ý chí ấy nữa: có những định luật lịch sử đưa giai cấp vô sản tới công cuộc đạp đổ giai cấp tư bản để chiếm lấy quyền thế. Thành thử, sự diễn tiến lịch sử không được bày tỏ như là sự đấu tranh giữa hai nhóm người, nhưng như là sự vận động của các khối khác nhau, và tự hủy lẫn nhau vì trọng lực riêng của chúng. Vì thế cho nên thuyết mác xít có thể được coi như là một thuyết tất định, cho lịch sử là một sự tiến hành nghiêm khốc, không thể nào ngăn cản hay làm cho đổi hướng được. Các định luật của Marx tìm thấy ấy là những yếu quyết của một cơ giới sẽ luôn luôn lập lại trong thời gian sự biến chuyển nghiêm nhặt của nó. Giai cấp của những người bị bóc lột sẽ phá hủy giai cấp những người bóc lột; cuộc cách mạng này liên hệ với một giai đoạn trong sự tiến triển kinh tế xã hội. Giai cấp trung lưu loại trừ giai cấp quý tộc, khi kinh tế dinh điền phong kiến được thay thế bởi tư bản thương mãi; lao động vô sản sẽ loại giai cấp trung lưu khi quyền công hữu thay thế quyền tư hữu.

Dưới con mắt của Marx, lịch sử Tây phương được coi là “lịch sử mô phạm, vì chỉ có lịch sử này mới đã phát triển cực độ các tiến bộ kỹ thuật, mới đã thiết lập tư bản kỹ nghệ, mới đã bành trướng các cuộc đấu tranh giai cấp và các cuộc cách mạng. Lịch sử ấy có một giá trị tiêu chuẩn nhờ ở những điển hình nó có thể hiến cho các xã hội, các lịch sử khác. Nhưng thuyết mác xít lạc lối ở đây: thay vì hiểu là các hình thức biến chuyển từ những xã hội vô giai cấp tới những xã hội có giai cấp có một phức số tính rất lớn, hệ thức của Marx được coi như là mô phạm các giai đoạn mà mỗi xã hội bắt buộc phải trải qua, tuy là mau hay chậm tùy theo các trường hợp.

Như vậy, dòng lịch sử trở nên một sự vận động tương phản giữa một hằng tố (constante) và một biến tố (variable). Hằng tố là đoàn thể xã hội, nhưng một đoàn thể xã hội cơ giới hóa, luôn luôn tương tự trong sự biến chuyển của nó. Biến tố là trình độ hay hoàn cảnh kinh tế xã hội trên thế giới, nhưng những điều kiện kinh tế xã hội này được trình bày như những sức mạnh thiên nhiên đã được tổ chức một cách khoa học, nghĩa là nằm ngoài con người, không dính dáng chút nào với con người. Thành thử, hiện tại sẽ lập lại quá khứ, chỉ với những điều kiện kinh tế kỹ thuật khác mà thôi. Công việc sử gia phải làm sẽ là nghiên cứu những sự lập lại, nhấn mạnh lên tính vĩnh cửu của quan niệm giai cấp, và nối liền với các sự tiến triển của giai cấp ấy với sự phát triển khách quan (développement objectif) của kinh tế. Nhiệm vụ của sử giai không phải là khám phá ra lịch sử nữa, mà là “tìm lại” lịch sử, tìm lại lịch trình diễn tiến đã thúc đầy một cách cơ giới nhân loại tiến hành từ chế độ cộng sản nguyên thủy để kết thúc bằng chế độ cộng sản tối hậu.

Thuyết mác xít là thuyết của cái không thể tránh được, và Marx đồng hóa triết lý về sử của ông với lịch sử; ông đòi hỏi lịch sử bắt buộc chỉ làm những gì nó phải làm. Nhưng các kết luận của Marx khó gò ép các xã hội lịch sử, rất thường không chịu nhận những sự phân chia giai đoạn của thuyết mác xít, những sự phân chia giai đoạn cho phép phân biệt một xã hội bằng một cách thức sản xuất “nô lệ”, “phong kiến” hay “tư bản”, v.v… Vì thế, các nhà chuyên môn đã phải tranh luận nhiều, khi đề cập tới “giai đoạn nô lệ” ở Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Hắc Phi Châu, v.v… Cũng có người tìm cách biến đổi hệ thức 4 giai đoạn xã hội của Marx, tuy không muốn đạp đổ hẳn hệ thức ấy: vì họ chỉ có những khái niệm Tây phương về chế độ nô lệ và chế độ phong kiến, họ xếp nhiều đoàn thể xã hội vào trong loại phong kiến, làm quan niệm “phong kiến” mở ra quá trộng; họ nói tới xã hội phong kiến mỗi khi họ gặp một giai cấp quý phái. Quan niệm này đã bị chỉ trích rất nhiều bởi những sử gia như Marc Bloch[4] hay Robert Boutruche[5].

Riêng với các xã hội Á Đông, các sự kiện lịch sử khó thích ứng nổi với các khái niệm của lịch sử Tây phương. Để giải thích đặc tính của lịch sử Á châu, các sử gia áp dụng thuyết mác xít đã phải nghĩ tới một quan niệm khác, quan niệm “cách thức sản xuất Á Đông” (mode de production asiatique). Quan niệm này chỉ định vài xã hội trong đó các đoàn thể bộ lạc đã biến chuyển tới những hình thức sở hữu đoàn thể mới, và đã xuất hiện một giai cấp quý phái nắm được quyền uy. Trong những xã hội này, dân quê không phụ thuộc giai cấp quý phái y như ở Âu châu phong kiến; sự liên hệ giữa giai cấp quý phái và giai cấp nông dân ở đây hoàn toàn khác biệt với sự liên hệ giữa các giai cấp trong một xã hội phong kiến[6].

* * *

Sử quan mác xít căn cứ trên những con số trung bình, mà không để ý tới những tình trạng đặc biệt của các thời đại lịch sử, ngoài tình trạng của sự phát triển kinh tế. Vì hạn chế như thế, vì nhấn mạnh lên yếu tố kỹ thuật có vong nhân tính, thuyết mác xít đã cơ giới hóa lịch sử, đã xóa bỏ tha tính của lịch sử, xóa bỏ những biệt dị ở trong con người, vừa là con người tôn giáo, con người kỹ thuật, con người chính trị, con người văn hóa và con người kinh tế. Thuyết mác xít đã đem áp dụng cho con người những quan niệm căn bản của kinh tế học, trong khi sử học lại đem tính bất nhất, tạp bác của con người tới giải thích kinh tế. Thuyết mác xít trở nên một phương pháp giải thích lịch sử đã chỉ có những kết quả tiêu cực nếu nó chỉ được áp dụng một cách câu nệ. Thật ra, sử quan của Marx là một lòng tin, là một ý thức hệ, nó hiến cho lịch sử một nghĩa lý mới, một mục đích mới trong thời gian, sự chấm dứt thời “tiền sử”, theo lời Karl Marx.

N.T.A



[1] Tất nhiên, ở đây chúng ta chỉ có thể tóm tắt một cách hết sức sơ lược tư tưởng của Karl Marx, đã được bày tỏ trong rất nhiều tác phẩm. Ngoài ra, các ấn phẩm về tư tưởng Mác xít cũng đầy rẫy; Cf. Trần Văn Toàn, Tìm hiểu triết học của Karl Marx, Saigon, Nam Sơn, 1965.

[2] Bản tuyên ngôn đảng Cộng sản, 1848.

[3] E. Labrousse, Aspects de la crise et de la dépression de l’économie francaise au milieu du XIXè siècle (1846-1851), Paris, 1956.

[4] La Société féodale, Paris, 1940.

[5] Seigneurie et féodalité, T.I. Paris, Aubier, 1959.

[6] Đọc thêm: P. Vidal-Naquet, Karl Wittfogel et le concept de “Mode de production asiatique”. Annales (Economies, Sociétés, Civilisations), N0 3, 1964.


Tác giả gửi cho viet-studies ngày 8-8-17