SỐNG
NƠI THỊ THÀNH Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
Đường thành phố
Đường thành phố rất khác đường ở làng quê. Hẳn rồi.
Này nhé, đường làng nho nhỏ như những lối mòn uốn lượn chạy giữa những
mảnh vườn những ngôi nhà... Đường thành phố thì thẳng tắp rộng rãi
“đường ta rộng thênh thang tám thước”, sau này khi “tám thước” đã lạc
hậu, người ta sửa lại “đường ta rộng thênh thang ta cứ bước”, nghe mới
hùng dũng làm sao!
Đường thành phố tráng nhựa bằng phẳng, trời nắng hun nóng bỏng đố ai dám
đi chân không. Đường thành
phố hay bị đào lên xới xuống lắp đặt nay ống nước mai ống điện mốt cáp
quang... thành ra mặt đường nham nhở, lớp nhựa mỏng phủ lên lớp cát đá
vá víu qua loa được vài hôm thì lở loét. Còn đường làng lồi lõm, phân
trâu bò vương vãi khắp nơi nhưng đất cát pha mịn màng nén chặt, đi chân
đất mát rượi. Người ở phố về, chỉ cần bỏ dép đi chân không trên đường
làng thì bao nhiêu mệt nhọc bao nhiêu bức bối đều tan biến.
Đường thành phố có vỉa hè lót gạch con sâu hay gạch men màu sạch sẽ, lề
đường là những viên đá xanh bó vỉa gọn gàng hay tráng xi măng thoai
thoải tiện xe lên xuống, mặc dù có khi chỉ vài bữa là long tróc khập
khiễng. Còn vệ đường làng là cỏ xen lẫn cây mắc cỡ... sáng sớm ướt sương
trưa nắng hăng hắc mùi cây cỏ. Đây là “vương quốc” của đám châu chấu cào
cào... nên người ta không đi sát vệ đường mà cứ giữa đường mà bước.
Đường làng hai bên là hàng rào râm bụt hay dây tơ hồng, lòng chợt bình
yên khi gặp người quen, chào hỏi chuyện trò như người trong nhà. Rảnh
thì ghé vô nhà bác Hai cô Ba trò chuyện vài câu. Nghe ai đó hú một tiếng
thì bước qua hàng rào mà vô làm một ly cho ấm bụng... Đường thành phố
mặt tiền là những cửa hàng cửa hiệu sang trọng, quán cóc lề đường chợ
tạm lúc nào cũng nhấp nhổm vội vã cuống quýt... Giữa phố đông người vẫn
“thấy đời mình là những quán không”. Chẳng chào hỏi ai nhưng thấy người
đi xe chưa gạt chân chống vẫn đuổi theo nhắc một câu rồi phóng đi không
đợi lời cám ơn.
Đường thành phố có nhiều ngã tư ngã năm ngã sáu... đèn xanh đỏ liên tục,
bùng binh xoay tròn, xe chảy qua như nước. Phải chờ đúng đèn xanh mới
được qua đường, nếu không rất dễ gặp tai nạn. Chỉ cần mỗi bên lấn trước
đèn vài giây thôi thì kẹt xe xảy ra chắc chắn, không dễ “giải tỏa” chút
nào. Lần nào thoát khỏi đám kẹt xe ta cũng thấy hình như chưa bao giờ
hạnh phúc như lúc ấy.
Đường làng làm gì có lề phải với lề trái, làm gì có vạch vôi phân làn.
Không thích đi bên này thì qua bên kia. Xe máy mà chạy trên đường làng
thì lo mà... tránh người đi bộ đang ung dung “đường ta ta cứ đi”. Nhưng
khi đằng trước là chú trâu hay mợ bò đủng đỉnh bước thì đi bộ hay đi xe
cũng đành nép vào vệ đường mà vẫn sợ cái đuôi dính đầy phân đang ve vẩy,
sợ cặp sừng cong vút húc vào người. Thôi thì... nhường, trâu bò có biết
tránh ai bao giờ?
Đường thành phố thường có dải phân cách bằng inốc, bằng bê tông ngăn
giữa hai chiều, nhất là gần giao lộ. Ấy là vì phía nào người ta cũng lấn
sang bên kia để đi cho nhanh, chính vì vậy mà người đan vào nhau, xe này
nối xe kia, bám sát, nhúc nhích lách từng khe hở. Tiếng động cơ, khói
xăng, bụi bặm, cáu bẳn, kiên nhẫn, trách móc, chửi rủa... kiểu gì cũng
phải chờ đợi, như chờ ông Bụt hiện lên hô “biến” cho hết kẹt xe. Thỉnh
thoảng có người trèo qua dải phân cách như vẫn tiện thể trèo qua hàng
rào, bờ ruộng ở làng nhưng nhìn chung thói quen “đường ta ta cứ đi...
lung tung” nhờ vậy được hạn chế phần nào. Đường thành phố khác đường
làng thật!
Người thị thành có lối sống khác người (ở)
làng, hẳn rồi, bắt đầu từ thói quen đi trên đường thành phố.
Gà trong thành phố
Ở thành phố mãi rồi nhìn thấy gà chỉ nghĩ đến thịt gà là thực phẩm, làm
các món luộc kho hay chiên hầm, chỉ cố gắng biết phân biệt gà ta “thả
vườn” hay gà tam hoàng hay gà công nghiệp. Chẳng mấy khi nhớ đến tiếng
gà trống gáy ban mai, quên hẳn tiếng gà mái cục tác dẫn bầy con tìm
mồi...
Cho đến một lần tới thăm người bạn nhà trong chợ Bàu Sen. Hẻm nhỏ tráng
xi măng sạch sẽ, buổi trưa vắng người qua lại. Bỗng đâu có tiếng gà gáy,
rồi râm ran thêm nhiều tiếng ò ó o nữa. Bước ra cửa, ồ, nãy chạy xe vào
không để ý, trước cửa nhiều ngôi nhà đặt những chiếc lồng gà trong có
một hay hai chú gà trống, choai choai cũng có mà ra dáng bệ vệ cũng có.
Và lúc này đây các chú đang thi nhau đập cánh phạch phạch và vươn cổ gáy
một cách sảng khoái. Trong lồng mà vẫn nhớ cữ gáy khi đứng nắng trưa,
thương ghê vậy đó. Nghe tiếng gà mà tưởng như đang ở xóm Bàu Sen thủa
xưa khi còn nhà lá hẻm đất lầy lội...
Lần khác ngồi cà phê quán nhỏ trên đường Hoàng Sa ven kênh Nhiêu Lộc.
Buổi chiều mát mẻ, đường đông xe tấp nập, nước lên đẩy bông lục đơn lẻ
bình trôi mải miết. Từ trong hẻm nhỏ mấy người đàn ông xách lồng gà ra
bãi cỏ ven kênh, mở lồng thả ra vài chú gà trống. Mấy chú gà được thả ra
khoan khoái đập cánh gáy lên vài tiếng lạc lõng giữa dòng người xe qua
lại không dứt. Rồi hoàng hôn đến, mấy chú gà lại bị lùa vào lồng và theo
chủ đi về “nhà”, đấy là các căn hộ trên chung cư cao tít bên kia dòng
kênh.
Lần khác nữa chạy xe trên đường, phía trước là chiếc xe máy chở một
chiếc lồng sắt đầy gà. Bỗng đâu trong hẻm một chiếc xe máy khác lao ra.
Chiếc xe chở lồng gà vội tránh nhưng vì chở nặng lên loạng choạng và té
xuống đường, nắp bung ra, gà xổng khỏi lồng. Nhiều người vội chạy đến đỡ
người lái xe, cũng may bắt được hết mấy con gà. Chỉ lạ là mấy con gà to
cồ này chẳng cục tác ò o gì, chỉ ke ke khe khẽ, cũng chẳng đập cánh bay
lung tung mà chỉ nhảy nhảy trên đường. Nhìn kỹ hóa ra lũ gà công nghiệp.
Ừ, gà nuôi kiểu công nghiệp làm mất đi nhiều bản năng của loài gà, chúng
chỉ còn biết ăn quanh máng, chỉ biết đi lại trong chuồng chật chội, chỉ
biết đẻ trứng mà không còn biết thế nào là ấp trứng... Gà mẹ không còn
biết đến lũ gà con thì chắc chúng không biết xù lông bảo vệ lũ con khi
có diều quạ? Những chú gà trống cũng chẳng biết ngẩng đầu hùng dũng gáy
mà chỉ còn kêu khẹc khẹc rụt rè. Mà này, lũ gà mái đã được nuôi riêng để
đẻ trứng thì liệu bọn gà trống có còn giữ được bản năng duy trì nòi
giống?
Mà không thấy người thành phố nuôi gà mái nhỉ? Gà mái đẻ trứng ấp trứng
để có đàn gà con vàng hoe xinh xắn. Ừ, làm sao mà nuôi được, đến chó mèo
nuôi trong nhà lỡ chúng đẻ con còn không biết phải làm sao, kêu cho
không ai xin có khi đành lén mang ra chợ hay góc đường bỏ đấy, chạy xe
đi rồi còn dợm quay lại mang về. Thành ra chó mèo ở thành phố cũng như
heo ở nhà quê đều bị giải phẫu triệt sản, con nào con nấy trông như “phi
giới tính” hết.
Cứ lẩn thẩn nghĩ thế... lại thương những con gà nuôi chuồng. Rồi thương
cả những người ở thành phố. Thèm nghe một tiếng gà nên phải nuôi gà
trong lồng chật, trưa chiều cho chúng gặp nhau để chúng chào hỏi nhau mà
cất lên tiếng gáy. Chỉ thế thôi cũng đủ để người thành phố như được trở
về nhà quê yêu dấu.
Có bao giờ ta nhận ra, thành phố ngày càng chật chội đông đúc như một
cái chuồng vĩ đại, người thành phố cũng chen chúc và cam chịu, y như
những chú gà trong dây chuyền công nghiệp... những dáng vẻ giống nhau,
những tiếng nói những hành xử giống nhau...?
Nhưng mà, không hẳn thế. Con người trong cái chật chội bức bối nơi thị
thành vẫn tự cần mẫn kiếm ăn như bầy gà, cũng có khi phải giành dựt
nhưng cũng thường nhường nhịn, chia sẻ cho nhau những cơ hội kiếm sống.
Đôi khi xảy ra va chạm, một lời nói không vừa tai cũng đủ làm cho họ cáu
bẳn thậm chí to tiếng, có khi cũng như gà cùng chuồng đá nhau. Nhưng
trên đường vẫn luôn có những tiếng nhắc nhau cái chân chống xe chưa gạt,
cái vạt áo dài coi chừng cuốn vào bánh xe, rồi người vụt qua người không
đợi lời cám ơn.
Giữa bộn bề cuộc sống, thi thoảng nhìn mấy con gà trong chuồng hay thả
chúng ra trong chốc lát cũng như một liệu pháp mang lại cảm giác rằng,
dù sao con người cũng vẫn tự do và có quyền ban tự do cho những con vật
khác, dù tự do sống, tự do ăn tự do đi lại vốn là bản năng của loài vật.
Dù không gian sống chỉ là “cái chuồng thành phố” hay nhỏ bé như “cái
lồng căn hộ” thì con người vẫn luôn hướng đến không -gian – ngoài -
lồng, và xa hơn, một không gian không - có - lồng.
Thành phố thì tràn ngập tiếng ồn ào, làng quê bây giờ cũng chẳng nơi nào
yên tĩnh cả. Vậy nhưng mảnh vườn quê
rộng rãi mát rượi, hơi đất ẩm mát bàn chân, bụi chuối gió đung
đưa tàu lá, đàn gà tung tăng tự do bay nhảy đi lại kêu gáy bới đất đánh
nhau, duy trì nòi giống và khoan khoái cất tiếng gáy “chỉ có thế mà
thôi” ... vẫn luôn trở về trong giấc mơ của những người thành phố.
Nghịch lý đô thị
Một lần có việc qua Phú Mỹ Hưng. Quãng đường dài từ Gò Vấp đến quận 7
qua gần hết chiều dài thành phố, từ vùng ngoại ô cũ đến quận trung tâm
qua khu đô thị mới… Thành phố mở rộng lênTây Bắc xuống Đông Nam, xóm
ngoại ô làng ngoại thành nay trở thành khu đô thị mới. Các quận nội
thành cũ ngoài vài con đường trung tâm mặt tiền đã thay thế bằng những
tòa nhà cao tầng kiến trúc hiện đại nhưng khó có thể nói là đẹp, còn lại
những con hẻm như bàn cờ phía sau sự thay đổi diễn ra chậm chạp hơn, vì
cư dân ở đó phần đông vẫn là công chức, thợ làm công, buôn bán nhỏ…
những nghề nghiệp gắn bó với đô thị, tạo nên tầng lớp thị dân đông đảo
nhất nhưng lại không làm nên cái “mặt tiền” hào nhoáng mà số ít các “đại
gia” tạo nên ở khu trung tâm hay vùng đô thị mới.
Bây giờ các đại gia “nhà có điều kiện” thì ra ngoại ô tìm đất cất nhà
vườn, villa, dinh thự sang trọng xa hoa rộng rãi thoáng mát, trung lưu
thì ra quận mới (tách ra từ huyện ngoại thành) mua căn hộ chung cư cao
cấp đầy đủ tiện nghi dịch vụ “như Tây”. Có xa xôi gì đâu khi đường quy
hoạch mở rộng, hàng loạt cầu mới xây, từ khu đô thị mới đi vào trung tâm
chỉ khoảng nửa giờ xe hơi. “Nhà giàu” ra ngoại thành “nhà nghèo” vẫn
chen chúc nội thành, còn nhà nghèo hơn từ ngoại ô, từ khu giải tỏa lại
dạt ra nông thôn, biến ven đô thành ngoại thành của đô thị mới. Đây là
một sự thay đổi dễ nhận thấy của quá trình đô thị hóa. Sự thay đổi này
làm cho bộ mặt đô thị hiện đại hơn, nhưng khoảng cách của sự phân hóa
giàu nghèo cũng ngày càng xa hơn. Sự xáo trộn dân cư từng khu vực diễn
ra nhanh hơn, tầng lớp dân cư mới hình thành nhưng thời gian chưa đủ để
tạo nên những đặc tính của cộng đồng thị dân mới.
Sự thay đổi không chỉ có vậy. Những quán ăn nhà hàng ngày càng nhiều
“đặc sản” vốn là những món ăn dân dã hàng ngày: đậu hũ chiên, rau muống
bông bí xào tỏi, rau luộc chấm kho quẹt, cá rô bí chiên giòn, canh chua
cá kho tộ, lẩu cua rau mùng tơi, cháo cá rau đắng, lẩu mắm… Những món ăn
“nhà quê” mà mới vài chục năm trước có ai nghĩ một ngày kia sẽ hiện diện
trong nhà hàng khách sạn sang trọng với cái giá “cắt cổ”. Vậy mà giờ vô
quán người ta toàn kêu đặc sản đồng quê vì “ăn thịt cá hoài ngán quá”,
vì ăn nhậu lấy vui là chính chứ đâu cần lấy bổ lấy béo như một thời
thiếu thốn.
Tôi có anh bạn mở một quán nhậu trong hẻm nhỏ, cũng bán lai rai mỗi ngày
sáng chiều khoảng hơn chục bàn khách. Một lần khách kêu tính tiền thấy
đĩa rau muống xào tỏi giá tới mấy chục ngàn, bèn nói vui: sao đắt thế,
ngoài chợ 5 ngàn một bó ăn mệt nghỉ. Ông chủ cũng đáp vui “ngoài chợ nó
là rau muống, vào nhà hàng nó là nhân sâm”. Vui thật đấy nhưng… ngẫm,
hình như ở đô thị bây giờ người có tiền ngày càng ăn nhiều rau ít thịt,
mà phải tìm rau sạch, rau “nhà trồng” mới yên tâm. Thịt heo thịt gà giờ
không phải là món ăn chỉ của nhà giàu mà…nhà nghèo cũng thường ăn, vì
chăn nuôi công nghiệp nên giá rẻ nhưng chất lượng đâu phải như heo gà
“nhà nuôi”. Nhà giàu thì tìm ăn “gà quê lợn mán” còn công nhân ở khu
công nghiệp, dân xóm lao động thì ăn loại cá thịt bán ê hề ngoài chợ
chiều là hàng ế hàng dạt ướp chất bảo quản, độc hại đâu chưa thấy nhưng
nhìn cũng ngon mắt, lại vừa túi tiền, cũng là miếng cá miếng thịt cho
chén cơm dễ nuốt. Vậy là “người giàu ăn rau người nghèo ăn thịt” – lại
một “nghịch lý” của đô thị ngày nay.
Thành phố mở rộng mà phương tiện giao thông công cộng chưa phát triển,
phần lớn người dân vẫn dùng xe máy cho mọi hoạt động. Gần đây nhiều nhà
máy, trường học có xe đưa rước, khu đô thị trường đại học ở các quận mới
đã có các tuyến xe bus, mai này có metro nữa thì hy vọng xe máy sẽ giảm
dần và… biến mất. Nhưng khi
chưa giảm được xe máy thì xe hơi đang ngày một tăng, giờ cao điểm sáng
chiều xe “nhà giàu” chen chúc trong rừng xe máy, kẹt xe đành ngồi im đó
mà chờ cho đường thông, trong khi xe máy – nguyên nhân của phần lớn các
vụ kẹt xe – thì nhanh chóng thoát được nhờ qua lách hẻm nọ ngõ kia. Chưa
kể chợ lòng lề đường tụ tập
tiện mua bán cho xe máy nhưng bất tiện với xe hơi, chưa kể nếu xảy ra va
chạm thì nhiều khi xe hơi lại bị người ta gán lỗi làm cho “nhà giàu cũng
khóc”. Thêm một “nghịch lý” do hiện tượng “nông thôn hóa” của một bộ
phận dân cư chưa có nếp sống “văn minh đô thị”.
Cuộc sống đô thị ngày nay còn ngổn ngang những “nghịch lý” có thể hiểu
được về “lý” nhưng làm cách nào để nó không còn là “nghịch” thì thật là
nan giải.
Ta1c gia3 gu73i cho viet-studies nga2t 9-12-18
|