KỲ THỊ VÙNG MIỀN –
NHÌN TỪ TRẢI NGHIỆM CÁ NHÂN Nguyễn Thị Hậu
Từ nhiều năm nay bên cạnh những gạch đá “mũi tên hòn đạn” kể cả đại bác
bắn ra từ “bên thắng bên thua” nóng bỏng vào dịp 30/4 thì sự kỳ thị Bắc
– Nam lại như những đợt sóng ngầm trong xã hội. Chỉ cần ném xuống một
“hòn sỏi” là bài báo mạng hay status trên facebook lập tức biến thành
cơn bão trên đại dương truyền thông. Cơn bão này có sức tàn phá khủng
khiếp, để rồi sau đó lòng người tan hoang hơn bởi những vết thương chưa
kịp lành lại tiếp tục bị làm cho lở loét!
Không thể không nhận thấy tình trạng này ngày càng trở nên nặng nề, tiêu
cực. Nếu trước năm 1975 nói về những khác biệt về văn hóa, lối sống Nam
Bắc chỉ là sự nhận biết và phân biệt thì hiện nay trở thành sự so sánh
hơn thua và kỳ thị. Không chỉ ở tầng lớp bình dân mà nhiều “văn nhân” đã
phát ngôn gây ra mồi lửa cho sự kỳ thị bùng phát. Đặc biệt những phát
ngôn ấy qua báo chí đặt tựa gây sốc, có sự tiếp tay của những facebooker
chỉ đọc tựa dẫn link và comment chửi bới, rồi từ chuyện cá nhân dẫn đến
chuyện gia đình họ hàng sự nghiệp… Những định kiến chính trị, sự ác cảm
với chính quyền, sự tự tôn “trung tâm” tự hào “chuẩn mực” một cách quá
đáng… đều là những chất đốt rất tốt cho cái lò kỳ thị Bắc Nam bùng cháy
dữ dội.
Sự kỳ thị Bắc Nam bộc phát như vậy cũng giống như những phản ứng khác
trong xã hội vì bất cứ lý do nào. Nó phản ánh sự dồn nén về tinh thần,
khủng hoảng niềm tin (như người ta thường nói) và sự hụt hẫng trầm trọng
văn hóa ở khía cạnh tri thức nhân văn và tôn trọng con người.
***
Đây thực sự là chuyện vô cùng tế nhị và nhạy cảm, không chỉ về văn hóa
mà còn về chính trị nữa! Tôi không muốn nhắc lại, khơi gợi chuyện này
nhưng chưa bao giờ tôi thôi nghĩ về nó, bởi vì nó luôn hiện diện trong
cuộc đời tôi, dù muốn hay không vẫn cảm thấy bị tổn thương mỗi khi sự
việc lại ồn ào trên mạng ngoài đời.
Tôi là một người được sinh ra tại Hà Nội khi ba má tôi từ miền Tây Nam
bộ tập kết ra Bắc. Năm 1975 cả nhà tôi về quê, về Sài Gòn. Từ nhỏ tôi
luôn nhớ rằng quê mình ở miền Nam và từ khi vào Nam, tôi không nguôi nhớ
về Hà Nội của thời thơ ấu. Cũng từ nhỏ tôi được dạy rằng, ở đâu cũng có
người tốt người xấu, ở đâu mình cũng phải sống tử tế, mà điều tử tế đầu
tiên là không được vô ơn bội nghĩa.
Khi ở miền Bắc tôi còn là một cô bé rồi thành thiếu nữ, tôi hay phải
nghe người lớn nhận xét “con gái gì mà như cột nhà cháy”, “con gái gì mà
như cái sào chọc cứt”, “con gái gì mà nói chuyện với con giai tự nhiên
như ruồi”… Con gái gì mà…? Và người ta thản nhiên kết luận, “à nó là con
gái miền đù!” rồi cười khoái chí! Các bạn có hiểu là thế nào không? Thật
ra chuyện đơn giản và bình thường thôi: tôi có nước da ngăm đen, tôi gầy
và cao, tôi coi bạn trai bạn gái như nhau, không biết yểu điệu khép nép…
Và tôi sống ở một khu tập thể có nhiều người miền nam tập kết. Khi vui
khi giận thì chửi thề “đù má” chứ không “đ. mẹ”. Ngoài ra, nhà tôi còn
hay bị chê vì làm chao ăn chao và nhiều món ăn Nam bộ “không ai ăn kinh
thế”. Nói chung cứ không giống người khác là bị chê “kinh” dù không liên
quan đến ai và cũng chẳng có gì để gọi là tốt hay xấu.
Ngoài chuyện tào lao ấy thì cuộc sống gia đình tôi cũng như mọi gia đình
khác, tôi vẫn được nhiều bạn bè quý mến, dù thỉnh thoảng có câu đùa ác
như thế làm tôi chạnh lòng. Đến nay tôi về Sài Gòn đã mấy chục năm nhưng
gặp lại các bạn vẫn nhận ra tôi là cô gái ngày xưa cao gầy ngăm đen có
bím tóc dài quăn quăn và hay cười hồn nhiên…
Cả một thời thơ ấu nghèo khó ở Hà Nội và gian nan những nơi sơ tán, miền
Bắc còn lại trong tôi là sự đùm bọc sẻ chia. Hà Nội là quê hương thứ hai
của tôi, nơi đã lưu lại trong tôi nhiều điều tốt đẹp, nhất là cái giọng
Hà Nội ngày xưa, nhẹ nhõm, tự nhiên. Hơn
40 năm sống ở Sài Gòn tôi không cần phải cố gắng “giữ giọng Hà Nội” vì
nó là một phần của tôi, tự nhiên là như thế!
Như tôi đã kể trong vài tùy bút, những ngày đầu về Sài Gòn và về quê nội
ngoại, bà con đều ngạc nhiên khi nghe tôi thưa gửi: “nó nói tiếng gì
không phải tiếng Việt mình?”. Tôi vừa tủi thân vừa buồn cười. “Tiếng
Việt mình” theo người miền Tây là tiếng miền Tây, tiếng Sài Gòn, hay
cùng lắm là tiếng Trung tiếng Huế. Còn tiếng “nước Bắc” nghe thiệt lạ
lẫm xa xôi… Tất nhiên, sống đâu âu đấy, tới nay vốn từ ngữ của tôi được
bổ sung nhiều từ Nam bộ, sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày thuận tiện và
cũng cho tôi hiểu biết nhiều hơn qua ngôn ngữ, phương ngữ, nhất là khi
về làm việc ở miền Tây. Ngôn ngữ, cũng như ẩm thực, chấp nhận và tiếp
nhận càng nhiều cái mới lạ thì mình càng có lợi.
Hồi đó ở Sài Gòn và nhiều tỉnh thành miền Nam còn phổ biến tư tưởng
“công thần” Nhứt trụ nhì tù tam khu tứ kết (Trụ lại hoạt động trong
thành, ở tù, vô rừng, tập kết). Ba
má tôi là dân tập kết về rất “thấm” vì cách đối xử của tình trạng ấy.
Ngoài ra ông bà thường nghe
nhiều người bạn phiền trách “anh chị biểu con nhỏ nói tiếng Nam đi, sao
nói tiếng Bắc kỳ hoài vậy!”, ba tôi nghiêm giọng trả lời “nó nói tiếng
Bắc thì sao, miễn nó là người tốt. Nhiều người nói tiếng Nam mà cũng cà
chớn thấy mồ!”. Xong, tôi chẳng bao giờ phải nghĩ đến việc đổi giọng
thậm chí khi làm việc tại một cơ quan của thành phố mà ai cũng tưởng tôi
là người Hà Nội. Có cô bạn khuyên
tôi chịu khó nói tiếng Nam sẽ dễ dàng hơn trong công việc, tức là
dễ được sếp để ý rồi lên chức nọ kia… Tôi chỉ cười, biết bạn chân tình
vì bạn cũng dân tập kết về như tôi, nhưng khi đi họp hành, gặp các sếp
bạn nói tiếng Nam lơ lớ… Tôi thì không, vì không chịu nổi cảm giác giả
dối khi cố khác mình!
***
Từ năm 1975, nhiều chục năm trôi qua, miền Nam bây giờ có rất nhiều
người Bắc vô sinh sống, người Nam tập kết ra Bắc hầu hết cũng trở về quê
hương. Ở miền Nam nhiều người cũng đã ra đi, đi xa hơn ra nước ngoài chứ
không chỉ vào Nam như những người Bắc di cư hồi 1954.
Sài Gòn là nơi chịu sự đột biến lớn nhất miền Nam về dân cư sau
năm 1975, sự đột biến này kéo theo “cú sốc” không hề nhẹ về văn hóa, dù
Sài Gòn là nơi cởi mở dễ tiếp nhận mọi thứ. Tâm lý xã hội “bên thắng bên
thua” vô thức hay hữu thức thì đều tồn tại thực sự trong mỗi người. Nếu
hiểu biết và thiện ý thì mọi khác biệt sẽ được tôn trọng, để dần đi đến
những điểm chung. Nếu thiếu hiểu biết và tự cho “bên thắng cuộc” có
quyền áp đặt tất cả thì những khác biệt về văn hóa sẽ bị đồng hóa, đồng
nhất thậm chí bị triệt tiêu. Ở từng cơ quan, công ty hay ở cấp độ lớn
hơn ít nhiều đều có hiện tượng này, và công khai hay ngấm ngầm cũng có
sự phân biệt người Bắc người Nam mà đôi khi chỉ vì cá tính văn hóa vùng
miền khác nhau.
Tôi, “Nam kỳ gia công tại Bắc kỳ” nhìn ra những chuyện đó khá nhanh khá
rõ. Kể cả việc chính mình bị “bạn bè” kỳ thị chỉ vì không cùng cách nhìn
nhận một số vấn đề xã hội. Khi nêu chính kiến về cái tốt của Nam kỳ thì
bị nói “nó là người Nam mà, thảo nào cục bộ địa phương…”, còn khi bênh
vực cái tốt của Bắc kỳ thì “thấy giọng nó hông, Bắc kỳ rặc ri, con cộng
sản nòi mà”. Nghe mắc mệt!
Sài Gòn là nơi có lượng người nhập cư lớn nhất nước, văn hóa là sự pha
trộn và đa dạng từ nhiều vùng miền, lối sống, ngôn ngữ, ẩm thực ở đây
như một “liên hiệp quốc” thu nhỏ. Tình cảm quê hương là tự nhiên nhưng
sống ở Sài Gòn là chấp nhận khác biệt và thích nghi. Cũng như ba má
mình, tôi không ưa những người tập kết mới trở về Nam nhìn cuộc sống vật
chất đầy đủ hơn liền quay ra chê bai miền Bắc, người Bắc là nghèo nàn là
nhà quê… Nhưng tôi cũng rất ghét những ai đến Sài Gòn, nhờ Sài Gòn mà có
cuộc sống thoải mái, làm ăn dễ dàng, thậm chí giàu có, vậy mà mở miệng
là chỉ có chê, chê từ thời tiết khí hậu đến tất cả những gì “không giống
làng mình”… Hai loại người chê bai sổ toẹt tất cả như thế nếu một lần có
thể là vô tình, hai lần là vô tâm, ba lần là vô duyên nhưng bốn lần thì
là vô ơn. Tôi thật!
Gần đây sự kỳ thị Nam Bắc luôn bùng phát từ vài hiện tượng văn hóa mà
nguyên cớ là từ thói quen coi văn hóa miền Bắc, văn hóa Hà Nội là trung
tâm, là “chuẩn” để so sánh, rồi nhìn sự khác biệt thành sự hơn kém tốt
xấu… Từ đó có thái độ coi thường văn hóa khác vùng miền khác. Họ không
hiểu biết hay quên rằng, lãnh thổ đất nước ta như bây giờ là đã hình
thành trải dài trong không gian từ Bắc vào Nam qua thời gian hàng trăm
năm, sao có thể lấy văn hóa một nơi chốn một thời điểm làm “chuẩn” cho
tất cả, chưa kể mỗi vùng miền có hoàn cảnh xã hội và lịch sử khác nhau?
Chưa kể là sự phân biệt vùng miền càng nặng thêm vì cùng với đó còn là
dấu vết chiến tranh “bên thắng bên thua”?
Từ bỏ tâm thức “trung tâm” (của người Việt/Kinh, miền Bắc, Hà Nội, trung
ương…) để nhận biết, chấp nhận và tôn trọng sự đa dạng văn hóa (của 54
tộc người, của các vùng miền, địa phương, của những cộng đồng có số phận
lịch sử khác nhau…). Ngược lại, bình thản đón nhận những góp ý cũng như
những chê bai, vì không phải “Sài Gòn xưa” cái gì cũng là “tuyệt đỉnh”,
hoài cổ là chắt lọc những giá trị tốt đẹp nhưng “nệ cổ” thì sẽ phục dựng
lại cả những giá trị ảo…. Cả hai thái độ đó hiện nay, bây giờ đều rất
cần thiết, đó là một cách lấp dần vực sâu ngăn cách hai miền mà hơn 40
năm hòa bình vẫn còn đó.
Hơn ai hết, văn nhân trí thức là những người đầu tiên cần ý thức và thực
hiện điều đó. Bởi vì kỳ thị về chính trị chính là căn cốt của sự kỳ thị
văn hóa vùng miền, kỳ thị Bắc Nam.
Nguyễn Thị Hậu
Sài Gòn 25.10.2017
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-10-2017 |