Giáo dục Việt Nam
đang đi về đâu
Nguyễn Quang Dy
“Giáo
dục không phải là đổ đầy bình, mà là thắp một ngọn lửa”
(Education is not the filling of a pail, but the lighting of a fire).
(William
Butler Yeats)
Hiện tượng bất
thường
Gần đây, cách đánh vần trong sách giáo khoa CNGD trở thành chủ đề tranh
cãi “như mổ bò” trong dư luận, che khuất các mảng tối của khủng hoảng
giáo dục (như “phần nổi của tảng băng chìm”). Có hai hiện tượng bất
thường đáng chú ý. Thứ nhất, trong khi công chúng bị phân hóa làm hai
phe tranh cãi gay gắt, thì Bộ Giáo dục hầu như im lặng quá lâu một cách
khó hiểu, như không liên can trách nhiệm. Thứ hai, trong khi tranh cãi
phản ánh tâm trạng bức xúc của công chúng, như đống rơm khô dễ bắt lửa,
nó bộc lộ tình trạng dân trí thấp.
Tuy vai trò sách giáo khoa rất quan trọng trong giáo dục truyền thống,
nhưng nó không phải là yếu tố quyết định trong giáo dục khai phóng. Tại
Việt Nam, sách giáo khoa trở thành vấn nạn đối với học sinh và phụ
huynh, vì tình trạng độc quyền xuất bản và phát hành. Nói cách khác,
sách giáo khoa đã bị thao túng bởi nhóm lợi ích vì lợi nhuận khổng lồ,
nhưng chất lượng còn nghèo nàn vì chưa được coi trọng. Sách giáo khoa
CNGD có lúc “bị dìm” vì dám cạnh tranh với sách truyền thống, nhưng có
lúc “được nổi” vì sách CNGD có lợi.
Chắc mọi người còn nhớ hình ảnh phụ huynh đạp đổ cổng trường Thực
nghiệm, để xông vào trường nộp đơn xin cho con học.
Hình ảnh độc đáo đó đáng lẽ phải được đưa vào
Guinness Book of World Records.
Có thể nói với Gs Hồ Ngọc Đại rằng đây là một sự cố
hy hữu, có giá trị quảng cáo còn hiệu quả lớn hơn bất cứ một ý tưởng
quảng cáo chuyên nghiệp nào khác (mà lại không mất tiền). Nhưng thật là
nghịch lý vì sau khi “ba chìm bảy nổi”, Gs Hồ Ngọc Đại nay lại đang bị
dư luận “ném đá tơi bời” vì chính sự thành công của mình.
Không biết đó là quá trình “ba chìm bảy nổi” hay là “ba nổi bảy chìm”
của chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại). Nhưng nếu người
ta chỉ chúi mũi vào tranh cãi về sách giáo khoa hay cách “đánh vần” (như
“đánh vật”) dù vì lý do học thuật hay vì động cơ lợi nhuận, thì có thể
bị lạc đường, vì “thấy cây mà không thấy rừng”. Trong khu rừng rậm giáo
dục Việt Nam từ thời dựng nước (sau 1945), đã có quá nhiều phong trào:
từ “bình dân học vụ” đến “bổ túc công nông”, đến “vừa hồng vừa chuyên”,
đến “tiên học lễ hậu học văn”, đến “con ngoan trò giỏi”, đến “kiên cố
hóa trường lớp”, đến “thực nghiệm CNGD”, v.v.
Trong lần tranh cãi này, không thấy dư luận bàn cãi về vai trò của giáo
viên, tuy quan trọng không kém sách giáo khoa, cũng không thấy nói đến
vai trò của Bộ Giáo dục (nhất là Bộ trưởng). Quan trọng hơn là không
thấy nói đến vai trò của thể chế đã dẫn đến các vấn nạn đó,
mà nay người ta hay gọi một cách
văn hoa là “lỗi hệ thống”. Xét cho cùng, nếu lỗi ở sách giáo khoa, thì
có thể thay sách. Nếu lỗi ở giáo viên thì có thể thay giáo viên. Nếu lỗi
ở Bộ Giáo dục (hay Bộ trưởng) thì cũng có thể thay Bộ trưởng, nếu “chính
phủ kiến tạo” thấy cần. Nhưng nếu do “lỗi hệ thống”, thì người ta có dám
thay hệ thống và thể chế không? Với văn hóa chụp giật của các các nhóm lợi ích
thân hữu, chính sách giáo dục “từ trên xuống” (top down) và tình trạng
dân trí thấp “từ dưới lên” (bottom up) đã làm thui chột nguồn nhân lực
chất lượng cao để hội nhập quốc tế. Trung Quốc đã cất cánh về kinh tế vì
cách đây hơn hai thập kỷ, họ đã quyết tâm đầu tư lớn cho giáo dục đại
học, đặc biệt là các trường đứng đầu (như Bắc Kinh và Thanh Hoa) để đạt
“đẳng cấp quốc tế”. Muốn nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, là yếu tố sống còn để phát triển, phải
đổi mới thể chế và đầu tư đúng chỗ. Chúng ta nói quá nhiều về khủng hoảng giáo dục
(như cái ngọn) nhưng vẫn chưa đổi mới thể chế (là cái gốc). Nếu không
thoát khỏi hệ tư tưởng giáo điều đã lỗi thời, coi thường trí thức, thì
không thể nâng cao dân trí. Mọi cố gắng cải cách giáo dục chỉ luẩn quẩn
và duy ý chí như tự cầm tóc nhấc mình lên. Nếu không từ bỏ tư duy độc
quyền thì không thể bỏ được độc quyền giáo dục, và không thể kiểm soát
được quyền lực. Độc quyền sách giáo khoa là một loại tham nhũng chính
sách của các nhóm lợi ích được thể chế độc quyền bảo kê.
Hệ quả khó lường Văn hóa-Giáo dục là hai lĩnh vực gắn liền với
nhau như hình với bóng, và tương tác theo luật nhân quả. Giáo dục mà
thiếu văn hóa làm nền cũng giống như làm nhà mà thiếu móng. Học gì và
học thế nào thường liên quan đến giáo dục-đào tạo, nhưng học để làm gì
thường liên quan đến văn hóa-tư tưởng. Thời trước, khi nói đến “khai dân
trí và chấn dân khí”, chắc cụ Phan Châu Trinh nghĩ đến cả giáo dục-đào
tạo và văn hóa-tư tưởng. Nhưng ngày nay, vào thời “mạt pháp” (theo phật
lịch) thì văn hóa-giáo dục đang bị suy đồi và khủng hoảng. Khủng hoảng giáo dục-đào tạo thường kéo theo
khủng hoảng văn hóa-tư tưởng và khủng hoảng lòng tin. Khi mất lòng tin,
môi trường sống bị ô nhiễm, môi trường giáo dục-đào tạo suy đồi và khủng
hoảng, nhiều người (cả quan chức và trí thức) sẽ bỏ đất nước,
tìm nơi khác cho gia đình cư trú
như “tị nạn giáo dục” (thay vì “tị nạn chính trị”). Nhưng người ta không
di cư sang Trung Quốc (vì đại cục “16 chữ vàng”), mà thường cho gia đình
di cư sang Mỹ, Úc, Canada, và châu Âu, vì ai cũng muốn một môi trường
sống và giáo dục an toàn. Vậy điều gì đã xảy ra tại Việt Nam làm chất lượng
giáo dục xuống cấp như vậy? Sau giải phóng (1954 tại Miền Bắc và 1975
tại Miền Nam), cách mạng đã phá bỏ mọi thứ của “đế quốc thực dân” (kể cả
hệ thống giáo dục). Tại nhiều nước khác (như Ấn Độ) người ta không làm
như vậy, mà vẫn giữ nguyên hệ thống giáo dục của Anh (hay Pháp). Chính
vì vậy, cho đến nay hệ thống giáo dục của họ (về cơ bản) vẫn còn nguyên,
nên chất lượng vẫn tốt. Khi lập chính phủ thời VNDCCH, cụ Hồ cũng chú
trọng đến giáo dục và văn hóa, nên chọn được các trí thức hàng đầu làm
bộ trưởng, như ông Nguyễn Văn Huyên và Tạ Quang Bửu (Bộ Giáo dục) và ông
Hoàng Minh Giám (Bộ Văn hóa). Tại Miền Nam, hệ thống giáo dục kiểu Pháp
(về cơ bản) vẫn được duy trì đến 1975. Nếu so bộ trưởng giáo dục và văn
hóa thời nay với thời trước thì hơi xấu hổ. Bằng cấp của họ tuy không
thiếu (vì không giáo sư cũng tiến sỹ) nhưng chỉ thiếu văn hóa, nếu không
ngọng tiếng Anh cũng ngọng tiếng Việt. Lẽ ra khi phá cái cũ thì phải thay bằng cái mới
tốt hơn, nhưng càng cải cách giáo dục, tình trạng suy thoái và tụt hậu
về giáo dục càng tệ hơn. Cũng như kinh tế thị trường “định hướng XHCN”,
Văn hóa-Giáo dục cũng phải “vừa hồng vừa chuyên”.
Cách đây đã lâu, một lãnh đạo
(hình như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng) nhận xét: “chất lượng giáo dục
nước ta rớt nhanh như nhảy dù”. Khủng hoảng giáo dục nay đã trở thành
vấn nạn quốc gia. Gần đây, cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng nói:
“cán bộ yếu thì cho đi học, bắt cán bộ giỏi làm thay; đến khi bổ nhiệm
thì nhờ có bằng cấp nên cán bộ yếu được đề bạt”. (Tuổi Trẻ, 18/7/2006). Nếu ngành xây dựng “ăn nhà đất” và ngành giao
thông “ăn cầu đường”, thì ngành giáo dục “ăn sách giáo khoa” và các đề
án cải cách giáo dục. Tuy không biết ngành nào ăn to hơn và phá nhiều
hơn, nhưng chỉ biết họ “ăn không chừa thứ gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan).
Nếu ngành y tế thiếu trách nhiệm, họ có thể làm nhiều người mất mạng hay
tàn tật. Nếu ngành xây dựng làm hỏng vài tòa nhà và ngành giao thông làm
hỏng vài con đường (là hạ tầng cứng), người ta có thể đập đi xây lại.
Nhưng nếu ngành giáo dục làm hỏng một hai thế hệ (như hạ tầng mềm) thì
không thể đập đi xây lại, và hệ quả của khủng hoảng giáo dục khó lường.
Nếu vấn
nạn giao thông hay vấn nạn y tế có thể gây ra “đột tử” cho hàng trăm
sinh mạng, thì vấn nạn giáo dục có thể gây ra “đẳng tử” (chết từ từ) cho
một hai thế hệ (vì dân trí thấp). Không biết cái chết nào nguy hiểm hơn.
Câu chuyện tụt hậu về kinh tế
(so với nhiều nước trong khu vực) chắc chắn có nguyên nhân từ sự tụt hậu
về chất lượng giáo dục-đào tạo. Suy thoái và tụt hậu về kinh tế hay công
nghệ (là hạ tầng cứng) có thể làm lại và phục hồi trong một hai thập kỷ,
nhưng suy thoái và tụt hậu về văn hóa và giáo dục, đạo đức và dân trí,
(là hạ tầng mềm) thì rất khó phục hồi, có lẽ phải mất một vài thế hệ
(hoặc không bao giờ).
Càng cải cách càng tụt hậu Năm 2008, Bộ Giáo dục đã tổ chức đối thoại trực
tuyến với dân một cách “rất cầu thị”, thừa nhận sai lầm trong chương
trình dạy ngoại ngữ và “hứa sẽ cải tổ”. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
lúc đó đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, ngày 30/9/2008, duyệt kinh phí
10,000 tỷ đồng (gần 500 triệu USD) cho “Đề
án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008
- 2020” (gọi tắt là “Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020”). Theo chương
trình này, đến năm 2020 “đa số
thanh niên Việt Nam sẽ có đủ năng lực ngoại ngữ, biến ngoại ngữ thành
thế mạnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Trong khuôn khổ triển khai đề án ngoại ngữ quốc
gia đó, các tỉnh tranh thủ “tát nước theo mưa”. Long An duyệt chi 437 tỉ
đồng, Kon Tum duyệt chi 135 tỉ đồng, Đà Nẵng duyệt chi 140 tỉ đồng.
Không biết vì sao lại cần đến ngần ấy kinh phí, chẳng khác gì phong trào
xây tượng đài. Sau 7 năm (kể từ khi ký duyệt) hay 5 năm kể từ
khi bắt đầu triển khai giai đoạn hai (2011-2015), bức tranh toàn cảnh về
đề án này đã dần lộ rõ chân tướng, làm dư luận bức xúc về tính
hiệu quả. Nhiều người nghi vấn về động cơ tham nhũng, làm lãng phí ngân
sách.
Việc cải tổ cách dạy tiếng Anh là rất cần, nhưng có cần một kinh phí
khủng đến thế không (gần 500 triệu USD) khi Việt Nam còn nghèo và ngân
sách đang cạn kiệt? Số tiền
đó đủ để lập ra 5 trường đại học đẳng cắp quốc tế (như đại học
Fulbright). Ông Lý Quang Diệu chắc cũng không dám chi nhiều đến như vậy
cho Singapore, tuy ông ấy thường kêu gọi “học tiếng Anh là vấn đề số
một” để tiếp tục phát triển đất nước giàu mạnh. Nhưng vấn đề không phải
là mất bao nhiêu tiền, mà là được cái gì. Tại sao đầu tư lớn đến như vậy
nhưng năng suất lao động của người Việt vẫn thấp nhất khu vực, và không
có đủ nhân lực để hội nhập quốc tế? Trong khi người dân còng lưng đóng thuế và trả nợ
thay cho những đề án cải cách lãng phí khủng khiếp đó mà không được
hưởng một nền giáo dục tử tế, thì các nhóm lợi ích thân hữu và các quan
chức tham nhũng (là “đầy tớ nhân dân”) tiếp tục làm giàu, để rồi tuồn
tiền ra nước ngoài cho con cháu họ du học và chuẩn bị “hạ cánh an toàn”.
Đó là một nghịch lý đáng buồn. Không chỉ ngành giáo dục phải chịu trách
nhiệm, mà các ngành khác (stakeholders) và các nhà tài trợ quốc tế
(donors) cũng phải chịu một phần trách nhiệm liên đới.
Sau nhiều chương trình cải cách ồn ào, và nhiều
“đề án quốc gia” hoành tráng, được vẽ ra chủ yếu vì kinh phí, nhưng lại
“đầu voi đuôi chuột”, đâu lại hoàn đấy. Hàng năm, hơn 40% sinh viên tốt
nghiệp đại học không có việc làm, hoặc không làm được việc, vì chất
lượng đào tạo quá thấp và xa rời thực tế, không đáp ứng được yêu cầu hội
nhập quốc tế. Kết cục là sinh viên tốt nghiệp vẫn thừa và thất nghiệp,
trong khi các doanh nghiệp vẫn thiếu nhân lực. Người Việt “không thua
kém ai” nhưng tại sao đất nước tiếp tục nghèo hèn và tụt hậu? Việt Nam
có một cái mỏ người rất quý (hơn 90 triệu dân), nhưng đến nay vẫn không
biết cách khai thác. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để hội
nhập quốc tế và có năng suất lao động cao hơn, phải nâng cao chất lượng
giáo dục bằng cách nâng cao dân trí và xây dựng một xã hội công dân. “Xã
hội hóa” chỉ là khẩu hiệu suông, nếu không thực sự đổi mới tư duy cải
cách giáo dục. “Kiên cố hóa trường học” là một khẩu hiệu ngược đời, vì
gía trị cốt lõi của giáo dục không phải là phần cứng (hardware) mà là
phần mềm (software). Melinda Gates nói, “Chỉ
trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề
giảng dạy…”. Nói như vậy để thấy sự bất cập và phân liệt
(dysfunctional) trong cơ chế quản trị đất nước. Một chính phủ “kiến tạo”
không thể “trên nóng dưới lạnh” hay “trên bảo dưới không nghe” và “trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược” hay “tay phải, tay trái” khác nhau. Hàng năm,
tại các Diễn đàn Kinh tế, đại diện ngành giáo dục có tham gia không?
Các nhà quản trị và các doanh nghiệp có “đặt hàng” với ngành giáo
dục hay không? Tại sao 40% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, hoặc
không làm được việc? Chẳng lẽ suy thoái và tụt hậu kinh tế không liên
quan đến giáo dục-đào tạo? Chẳng lẽ khủng hoảng về đạo đức và nhân cách,
tình trạng vô cảm và bạo lực đến mức báo động hiện nay trong xã hội
không liên quan đến Văn hóa-Giáo dục?
Đi tìm triết lý giáo dục Người ta hay nói đến cải cách giáo dục (như cái
ngọn), nhưng vẫn ít đề cập đến triết lý giáo dục (như cái gốc). Trong
khi tham khảo các triết lý giáo dục khác nhau, chúng ta thử đề cập đến
một triết lý giáo dục (educational philosophy) được nhiều nước trên thế
giới vận dụng (trong đó có Việt Nam). Đó là “lý thuyết kiến tạo” (Constructivism
& Constructionism) do các nhà khoa học Jean Piaget (1896–1980) và
Seymour Papert (1928-2016) đề xướng. Papert là học trò xuất sắc của
Piaget, đã phát triển constructionism trên cơ sở constructivism. (*)
Theo Jean Piaget, lý thuyết constructivism
giúp học sinh phát triển nhận thức (cognitive), qua thực nghiệm và quan
sát (experience and observation), trong khi lý thuyết constructionism
của Seymour Papert chú trọng thực hành (physical) thông qua “cách học
thế nào” (learning how to learn). “Lý thuyết kiến tạo” cho rằng
học sinh làm việc hiệu quả khi họ chủ động và tự giác làm ra những thứ
hữu hình trong thế giới thực (maker place) bằng thực nghiệm, chú trọng
đến cấu trúc sinh học hữu hình và những quy luật phổ quát của sự phát
triển tri thức. Tuy lý thuyết này phát huy
hiệu quả tốt với các lớp học sinh giỏi (và các lớp luyện thi), nhưng nó
lại có nhược điểm là khó nhân rộng và khó áp dụng cho những lớp đông học
sinh.
Các nguyên lý và tiêu chí cơ bản của “lý thuyết kiến tạo” là “học tích
cực” (Active learning), “học bằng thực hành” (Learning by doing), “lấy
học sinh làm trung tâm” (Student-centered), “học qua vấn đề”
(Problem-based learning), “học qua dự án” (Project-based training), “học
qua trải nghiệm” (Experiential learning), “học qua khám phá” (Discovery
learning), “học bằng làm việc nhóm” (Group work in learning), “dạy trên
cơ sở khảo cứu” (Inquiry-based teaching),
“học qua kiến tạo và phối hợp” (Constructivism-based Blended
learning)…
Lý thuyết kiến tạo (constructivism & constructionism) chú trọng tạo cơ
hội cho học sinh học một cách tích cực
(active educational opportunities), để phát triển văn hóa thực nghiệm
(maker culture) trong các lĩnh vực “STEAM” bao gồm khoa học (science),
công nghệ (technology), chế tạo (engineering), nghệ thuật (arts), và
toán học (mathematics). Tại MIT, Papert đã lập ra Nhóm Nghiên cứu mà sau
này đã trở thành “MIT Media Lap” nổi tiếng. Cũng chính tại MIT mà ông đã
nghiên cứu và phát triển “lý thuyết kiến tạo” (constructionism).
Từ nghiên cứu trẻ em bắt đầu hiểu về thế giới thế
nào (how children make sense of the world) Papert đã nghiên cứu phát
triển trí tuệ nhân tạo để ứng dụng vào học, thông qua thiết kế và chia
sẻ trong môi trường cộng tác (learning through designing and sharing
within collaborative environments). Trong lý thuyết kiến tạo, học sinh
sẽ học hiệu quả nhất nếu được tiếp cận tri thức cao hơn tại “vùng phát
triển liền kề” (zone of proximal development).
Theo các nhà nghiên cứu, ý tưởng về “kiến tạo”
(constructs) thực ra đã xuất hiện từ thời xa xưa, từ thời Phật Tổ
(Buddha) và Lão Tử (Lao Tzu). Sau đó, ý tưởng này được các triết gia và
học giả khác tiếp tục phát triển (như Khổng Tử, Socrates, Immanuel Kant,
Chu Văn An). Vì kiến tạo là quá trình phát triển tự nhiên, nên các mô
hình học tập thuở ban đầu thường dựa trên phương pháp kiến tạo. Sau này,
các nhà nghiên cứu tâm lý giáo dục đã tìm cách kết hợp các lý thuyết
khác nhau và gắn với thực tế cuộc sống. Trong cuốn sách “The Evolving
Self” (Robert Kegan, Harvard University Press, 1982), Kegan đã tìm cách
phát triển lý thuyết gắn kết đó vào lĩnh vực giáo dục (becoming embedded
and emerging from embeddedness).
Tại Việt Nam, trường PTCS Thực nghiệm đã vận dụng “lý thuyết kiến tạo”
từ 1978 (qua con đường Nga). Theo thống kê, đến 2013 đã có 1.591 học
sinh tham gia các lớp thực nghiệm cấp tiểu học và THCS. Chương trình
thực nghiệm được triển khai tại 1.447 trường tiểu học trên 63
tỉnh/thành. Tuy chương trình này được triển khai trên diện rộng, trong
bốn thập kỷ qua, nhưng vẫn chưa được chính thức đánh giá và tổng kết để
xác nhận tính phù hợp (conformity) với các tiêu chí của “lý thuyết kiến
tạo” (ở cấp quốc gia hay quốc tế) để trở thành chính thống (như tại
Nga), nên vẫn còn là thực nghiệm (chưa hoàn chỉnh), dễ gây tranh cãi.
Lời cuối
Đó không phải là lỗi của chương trình thực nghiệm CNGD (vì đó chỉ là một
sáng kiến trong quá trình cải cách và xã hội hóa giáo dục) hay của người
đề xướng (vì Gs Hồ Ngọc Đại chỉ là một nhà khoa học chứ không phải là
nhà quản trị). Nếu chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại)
hay các chương trình khác như “Nhóm cách Buồm” (của nhà giáo Phạm Toàn)
chưa hoàn chỉnh hay chưa hoàn thiện, vì thiếu nguồn lực và thiếu hỗ trợ,
thì đó không phải lỗi của họ, mà là “lỗi hệ thống” của Bộ Giáo dục và
“chính phủ kiến tạo”. Đó là bức tranh
giáo dục màu xám, với những khoảng tối khó lý giải và thật đáng tiếc. Lẽ
ra, một đất nước với hơn 90 triệu dân là một cái mỏ nhân lực rất quý,
thì nay là một gánh nặng. Sắp tới, khi trí tuệ nhân tạo (AI) và người
máy phát triển, vấn đề nhân lực chắc còn nan giải hơn.
Trong khi đó, bức tranh về văn hóa cũng không khá
hơn. Theo thống kê của bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch, hàng năm nước ta có
tới 7.966 lễ hội (Lao Động, 5/3/2018). Hầu hết các lễ hội đó không những
tốn kém kinh phí và lãng phí thời gian, mà còn thiếu văn hóa và thừa bạo
lực. Bên cạnh “hội chứng lễ hội” (như “cờ đèn kèn trống”), Việt Nam còn
nổi tiếng vì “hội chứng tượng đài”. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa,
Việt Nam có hơn 400 tượng đài có vốn đầu tư khoảng vài chục tỷ đến vài
trăm tỷ VNĐ, thậm chí có dự án đến hàng ngàn tỷ VNĐ, không những làm cạn
kiệt ngân sách quốc gia, mà còn làm méo mó hình ảnh đất nước. Ngoài ra,
Việt Nam có quá nhiều cuộc thi hoa hậu đến mức phản cảm (với nhiều tai
tiếng). Nói cách khác, tham nhũng và suy thoái về văn hóa-giáo dục đang
làm xói mòn các giá trị cốt lõi.
NQD.
17/9/2018 (*)
Nhân đây, tôi xin nhắc lại một sự cố đáng tiếc đã xảy ra với Gs Seymour
Papert
khi ông đến Hà Nội
dự một hội nghị toán học quốc tế (ICMI, Hanoi Dec. 2006). Có lẽ nhiều
người Việt Nam đã quên mất sự cố bất hạnh đã xảy ra với nhà khoa học này
(lúc đó đã 78 tuổi). Chắc họ quá mải mê tranh cãi về sách giáo khoa CNGD
nên quên mất tác giả của “lý thuyết kiến tạo”.
Seymour Papert không chỉ quan
tâm đến toán học và phát triển “trí tuệ nhân tạo”, mà còn tìm cách ứng
dụng công nghệ mới vào khoa học giáo dục, và muốn góp phần tháo gỡ vấn
nạn ách tắc giao thông tại Hà Nội (mà bây giờ người ta sính gọi là 4.0).
Trong khi Papert đang nghĩ cách ứng dụng “lý
thuyết tổ ong” (beehive theory) vào giải pháp tháo gỡ ách tắc giao thông
Hà Nội, ông đã bị một xe máy đâm khi qua đường, gây chấn thương sọ não,
phải cấp cứu tại bệnh viện Việt-Pháp một tuần trước khi được đưa về Mỹ.
Thật trớ trêu thay, Papert đã trở thành nạn nhân của chính vấn nạn mà
ông tìm cách tháo gỡ. Sau khi được đưa về Mỹ điều trị, tuy ông đã may
mắn thoát chết nhưng bị tàn tật và sống thêm gần 10 năm. Seymour Papert
đã mất ngày 31/7/2016 (tại Blue Hill, Maine).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-9-18 |