cơn nước ngang qua
Một buổi chiều tháng Sáu,
khi từ rẫy về đến cổng nhà, họ nhìn thấy dấu hiệu bất thường. Mở hé đủ
cho một người lách qua, cổng vốn có như không ghép bằng mấy nhánh tre
gai, những khi họ vắng nhà hàng xóm hay vào đặt ở chái sau củ khoai
rạng, mớ bông so đũa, đôi khi là con Mốc đi lạc không nhớ đường về. Con
chó già đến mức cùn lụt giác quan, sủa như ngáp, không khó để ai đó đột
nhập vào bên trong khu vườn, vào căn nhà nhỏ với tường vách long lở.
Nhưng cánh cổng để hờ trong buổi chiều này trống trải kỳ cục. Mớ bìm bìm
kết tổ đầu rào đã biến mất, chỉ mới sáng nay trước khi ra rẫy, vài ngọn
dây leo vắt qua cổ Tam như thòng lọng, và mùi lá giập lúc sập cổng.
Chúng đã lợp cả rào từ mùa mưa trước, như hẹn với đám cỏ xước, cùng nhau
bôi xóa ngôi nhà.
Giờ ai đó đã dọn sạch
chúng. Và kẻ nọ vẫn còn ở trong nhà họ. Tầm nhìn quang đãng, ngay khi
đứng ngoài cổng Tam có thể thấy một thân người oằn trong lòng võng treo
giữa hai cây khế. Tam định kêu lên đánh động thì vợ anh chụp một khúc
cây mục rệu vượt lên trước, sấn bước về phía kẻ đột nhập đang nằm.
Họ không vấp phải sự kháng
cự nào. Gã đàn ông kia đang ngủ. Chưa tới bốn mươi, hoặc trẻ hơn, lúc
ngủ người ta thường khó đoán tuổi, khi mắt khép giấu từng trải, mưu tính
trong ánh nhìn. Bộ dạng buông tuồng, đôi môi dày ám khói thuốc hơi hé
ra, cánh tay để thõng bên mép võng sờn, như gã đã phó thác mình cho bông
khế rơi, vài đám mây đen kịt thấp tới mức cảm giác với tay là chạm tới,
cơn gió oằn hơi nước, những tay chuối khô điên khùng nhảy múa, cho bọn
ve kêu rần trên tàng ô môi, con chó Mốc nằm giấu đầu trong hốc cây. Hệt
con nhộng nằm trong chiếc kén của mình, chìm vào giấc sâu đầy tin cậy.
Tấn công gã này bằng tay
không chắc thua, Tam đứng ngay đầu võng, đo đạc độ dài, sức nặng nắm đấm
kẻ lạ bằng mắt, hình dung ra cuộc chiến mà anh nghĩ cần thủ con dao làm
cỏ mới có thể chiếm được thế thượng phong. Vợ anh trườn vào nhà, rồi
quay trở ra, giọng như cả con mắt chị cũng đáng ngờ,
“Không mất gì”
Sau câu nói đó là khoảng
trống của bẽ bàng. Nhà họ không có gì để mất. Ngay trước vài mùa dưa rớt
giá liên tiếp, họ cũng đã chẳng có gì. Cái ti vi trắng đen bể màn hình,
chị dùng để cất giấy tờ tùy thân và ít kỷ vật – vài bộ đồ sơ sinh héo
úa. Trên vách chỉ treo mỗi cái đồng hồ lâu rồi không được thay pin, đóng
băng ở một giờ bốn mươi bảy phút.
“Mỗi ngày cũng được một
lần chạy đúng”, Tam từng cà rỡn với thằng cha lái dưa vài ba tháng ghé
qua nhà họ một lần, người khách hiếm hoi được chủ nhà mời thứ trà nát
pha với bộ ấm chén lâu ngày không được kỳ cọ. Trà đặc, xác trà đầy ứ
trong bình, chỉ nhắm môi đã chát đắng tận óc. Và sự cục cằn của người
đàn bà trong nhà cũng khiến khách khó ngồi lâu,
“Phải mầy chịu ăn dưa thì
đâu phải gặp đám lái bất lương”, vợ Tam nói, đá thốc con Mốc hoặc đã
quen chịu đòn, hoặc già đến chẳng đủ sức kêu đau. Nó chỉ ẳng lên tiếng
một, giống phụ họa lời chủ hơn là cự nự cái sự đòn oan.
Nhà không khách, chẳng
khác cái hang của con thú ăn thịt. Và nó sao chịu để yên cho
kẻ xa lạ chiêm bao ngay trên võng nhà mình. Gậy vụt vào đầu võng
bắn ra những con mối ú mềm hãy còn đang ngơ ngác, vợ Tam kêu giật giọng,
“Dậy đi mau ! Muốn chết
sao ?”
Tam thấy biết ơn hành động
đó, vài giây trước anh còn tự hỏi đánh thức kẻ đang say ngủ này có phải
là tội ác không. Nhưng chị đã nhắc anh nhớ, dù ngủ hay thức, vô hại hay
hung hiểm, thì gã là một kẻ đột nhập. Và không kẻ đột nhập nào lại không
tà ý.
“Ờ, giờ mới về ?!”. Gã hé
một bên mắt, rồi hé cả bên còn lại, ưỡn người trên võng chừng như muốn
làm phẳng lại cột sống đã chùng. Chẳng có vẻ gã sẽ bỏ chạy hoặc lao vào
vợ chồng chủ nhà hòng kiếm đường máu thoát thân, ở cái tư thế vươn vai
thoải mái, vạt áo xách ngược lên phô rún và vết sẹo dài nửa gang tay,
khó phân biệt được là vết dao đâm hay từng mổ ruột thừa, hồi nào đó.
“Hên, phải ngủ thêm nữa là
ướt ngoi đống củi, mưa tới nơi rồi”, gã nói, loạng choạng tiến ra phía
vòi nước ở góc tường.
“Vòi hư rồi, nước đâu
mà...”, Tam kêu lên và nín luôn ngay sau đó, như lời đã bị dòng nước hăm
hở phụt ra kia cuốn trôi. Tuôn ra từ cái vòi đã lâu không rỉ một giọt
nào, nước dào dạt, như gã người lạ đã đọc một thứ bùa chú gì khi ngửa
đôi tay ra đón dòng chảy đầu tiên.
Vợ Tam vẫn thủ khúc cây
bở, dù mất tập trung khi nhìn mớ nước, lúc này tụ tập thành dòng men về
phía gốc khế mà không bị lá mục cản đường. Chẳng phun được câu từ cay
nghiệt nào, chị đã để gã đi ngang mặt mình, dù biết lẽ ra phải xua kẻ lạ
kia ra đường, đóng sập cổng, quăng ném theo những dọa dẫm bạo lực, bảo
đảm gã không dám bén mảng quay lại.
“Ê phụ một tay chớ. Mưa
tới rồi kìa”, phải gã không ôm bó củi chạy vào, giọng cáu kỉnh, vợ chồng
Tam vẫn xớ rớ. Họ rã đông mình, kẻ nhao về phía dây phơi, người chạy
ngược cơn gió đẫm nước ập tới từ vườn sau lại chỗ đống củi, cảm thấy
không thể cưỡng lại việc bị lôi kéo bởi một kẻ đáng ngờ.
Cơn mưa tháng sáu sập
xuống với sức nặng của những bọng nước đã đánh lạc hướng cuộc xua đuổi
hứa hẹn bạo lực. Vợ chồng Tam cứu được đống củi với sự giúp sức của kẻ
lạ kia, trước khi mưa nhốt chặt căn nhà trong lớp rào trắng xóa. Mưa đã
xoay chuyển mọi thù nghịch sang phía nó, vợ Tam quăng khúc cây qua một
bên ôm xô chậu đi rải khắp nhà hứng dột. Những bệ rạc ngủ vùi suốt mùa
khô bị đánh thức, kêu vang.
Vợ không ở cạnh làm Tam
bất an khi ngó gã người lạ thủng thẳng lấy khăn anh lau cái bờm tóc rối
đang nhỏ nước. Màu sắc chiếc khăn nhòa lẫn với giẻ lau, thứ mà Tam vẫn
hay giắt chung sào, gã lấy đúng thứ gã cần, như nó thuộc về mình đã lâu.
“Chắc trên kia bể đập”, gã
đột nhập nói, ngón tay chỉ trời xước rớm máu, chừng như bị dằm củi xóc
vào, “mưa ớn hồn”. Gật đầu đồng tình chẳng khác nào nhận gã về phe mình,
nhưng Tam không thể cãi, đây là cơn mưa lớn nhất kể từ đầu mùa. Những
mũi dao mưa hung bạo lao theo đường thẳng đứng, hạt tiếp hạt, nước trong
nước. Tam nghĩ mình có nên xốc lại cây dao làm cỏ, mà khi nãy lo ôm củi
chạy mưa đã quăng ngay vách nhà. Vợ anh biến mất ở buồng trong, và anh
thì tay không. Cái khí hậu dè chừng không làm gã xa lạ chạnh lòng, gã
ngó trên nóc nhà nói gì đó, nhưng tấm lợp sút đinh giãy đành đạch trên
mái nhà đã làm dập nát nửa câu đầu.
“...kiểu này tối nay khó
ngủ yên đây”
Tam sợ mình hiểu lệch mé
nào, nhưng câu vừa rồi chỉ có mỗi nghĩa, gã sẽ ngủ lại đêm nay, ngay
trong nhà anh.
Một tay anh đã dựng ngôi
nhà này, với sự giúp sức của vài người đàn ông trong xóm.
Lúc đó, vợ Tam mang thai đầu lòng và dân xóm Cùng vẫn chưa chán
bọn anh tận xoáy thượng. Gạch lỗi, gạch quá lửa người ta bán như cho,
Tam chở về xây vách, lắt nhắt mà cao hồi nào không hay. Vợ chuyển dạ mới
ở tháng thứ tám, khi anh đang trộn vỉa hồ đầu tiên tô vách. Giờ đống bê
tông đông cứng bên hè, lùm lùm như một nấm mồ. Vách gạch trần phơi mưa
nắng.
Giờ trong ngôi nhà Tam tự
tay xây, một kẻ xâm nhập kịp rải dấu ấn của gã khắp nơi, ở đống củi mới
chẻ, mảnh sân được quét tước sạch sẽ, dây phơi căng thẳng rang, và nước
lại tuôn ra từ cái vòi mắc nghẹn đời thuở nào. Gã phải ở đây ngay khi vợ
chồng Tam vừa rời đi, mới có một khoảng thời gian rộng dài làm từng ấy
chuyện. Lúc Tam hì hục vét sình hai cái mương rẫy dài non công đất, gã
đã sục sạo khắp, bằng chứng là vừa khua tay vào sàn bộ vạc, kẻ lạ kia đã
tóm được mấy khúc khoai mì,
“Gạo ít quá, hấp thêm
khoai mới đủ ba miệng ăn”, gã nói, thả khoai dưới giọt mưa cho nước gột
hết bùn đất đi. Mưa không còn là thứ mưa tiều tụy chưa tới đất đã vô
hình trên những tầng lá mục ắp lẫm mùa chồng chất mùa, giờ chúng tự tin
xiên thẳng vào đất nâu, làm tóe ra những cánh nước cong sáng
loáng.
Đằng kia kẻ đột nhập đã
trút gạo vô xoong. Gã cời tro đầy ứ họng lò ra. Gã gieo lửa. Mọi vật
dụng trong nhà Tam bị tóm lấy gọn ơ, như nhắm mắt cũng biết món nào cất
ở đâu.
Đó là một buổi chiều đầu
hè, vợ chồng Tam từ miếng rẫy suốt nửa cuối mùa khô chỉ có bắp còi, về
tới nhà thì gặp một gã đàn ông chễm chệ ngay trong nhà họ. Vẻ tỉnh queo
của kẻ xâm nhập đã làm họ lạc hướng. Tay không, gã ra vẻ chủ nhà hơn cả
đôi vợ chồng tay xách đùm đề cái giỏ đi rẫy đựng cà mên cơm, radio, bình
nước. Không cách nào xua đuổi kẻ chẳng những tỏ ra vô hại mà còn quét
vườn, chẻ củi nấu cơm, Tam chỉ biết đứng ngó. Cả vợ anh, vốn mọc đầy gai
thù đời ở đôi khóe miệng hằn sâu, cái nhếch cười chẳng rõ nghĩa, chỉ nói
mỗi một câu khi quay lại chái sau từ những chỗ dột,
“Còn chưa nắm cổ nó quăng
ra đường ?”
“Mưa dữ quá”, Tam nói.
Không phải đỡ cho người lạ, mà biện hộ cho sự bất lực của mình.
“Chỉ ăn mập thây là giỏi”,
chị cười nhạt.
Tam ho. Chái sau mù khói.
Kẻ lạ tay thủ sẵn cặp bợ nhắc nồi, tay kia quạt lửa bằng chiếc quạt lá
chầm mà chính Tam không nhớ mình từng thấy nó chưa. Có tiếng cơm sôi.
Mùi khoai bở ra trong gạo đang tiết nhựa.
“Nhà không gì ăn”, vợ Tam
nói, tay hơ trên nóc khói. Giọng không rõ vui buồn, giống nhiếc móc
chồng đã bỏ quên mớ ốc bưu bắt được ngoài rẫy, lại như ái ngại với một
kẻ không thể coi như kẻ thù.
Giờ, gã là khách.
Tam nhớ vị khách cuối cùng
hay lui tới nhà mình, một thằng nhỏ bên xóm. Lúc đó vợ Tam hãy còn thích
trẻ con. Thằng nhỏ suy dinh dưỡng, lòng mắt trắng, gì cũng lép xẹp trừ
cái bụng ỏng ra đầy lãi kim lãi đũa. Cả ngày nó theo đuôi vợ Tam, vì chị
hay tìm món gì đó cho thằng nhỏ tọng vào ổ bụng không đáy. Thuộc làu mọi
ngõ ngách trong nhà Tam, nó biết cả tiền giấu trong khe vách nào. Vài
lần chị lấy kẹo dỗ nó kêu mình bằng má, nhưng chữ má cũng tan khi lưỡi
không còn vị ngọt cục đường.
Vợ Tam cưng chiều thằng
nhỏ, bỏ qua cả chuyện đứa trẻ xúc gạo của chị bọc trong vạt áo đem về
nhà nó. Chỉ tới khi chị ẩu đả với bà mẹ ưa xúi con ăn cắp vặt, đứa trẻ
trưa nào cũng gối đầu lên tay chị ngủ, chiều nào chị cũng ôm ra sàn nước
gội đầu, đã bênh mẹ bằng cách xông vào cắn chị bằng hàng răng siết ăn
đen thủi. Vết cắn không sâu, nhưng chị khóc rất lâu sau đó.
Tam tự hỏi có phải gã đàn
ông đang dốc ngược hủ tóp mỡ vào mẻ kho, là đứa trẻ hồi nào. Chỉ nó
thuộc làu vị trí hủ đường keo tương, mà bao nhiêu năm rồi chẳng thứ gì
trong căn nhà này dịch chuyển. Tam đổi vị trí ngồi, nhìn gã cho thật kỹ.
Gương mặt như được đẽo bởi một ông thợ non tay nghề, gã gần như không có
cằm, mũi gồ lên càng làm cho đôi hố mắt sâu, khóe môi còn vết tróc lở
chưa lành. Chẳng có chút nào từ thằng bé đầu đuôi nhọn hoắt tựa con
chuột nhắt năm xưa.
Tam không chắc. Thời gian
có cách mài, chà xát, nhào nặn thứ này thành thứ khác. Một Tam đầy ngập
ngừng từng chấp cả đám người trong cuộc ẩu đã giành miếng đất hoang, mà
sau này trở thành rẫy nhà anh. Một Tam cặp nách cô con gái của một ghe
đường mía mang vào vào khu mả tàu, tước vỏ cô ra, khóa chặt cô trên mặt
đá hoa cương ướt rượt sương. Sau tối đó, anh còn liều lĩnh xuống bến
sông, chỉ để đỡ thèm cô. Dù biết mình có thể bị bắt bất cứ lúc nào, ngay
khi cô đi tố cáo, nhưng anh vẫn không bỏ trốn. Hơn cả nỗi sợ, anh nhớ
những sợi lông măng rờn rỡn, những trắng nhức trên đá xám, những dính
dấp ấm nóng tận đỉnh đầu.
Cô gái ấy sau này là vợ
Tam. Anh còn có lúc quên người đàn bà kia từng dịu dàng cúi lượm con chó
xà mâu bị bỏ rơi về cưng nựng, đã đứng trên mảnh đất vừa được người đàn
ông của cô xí phần, phác một tương lai thơm phức mùi lá quế úa, mùi nhựa
bí vừa mới cắt dây, những gốc dưa hết mùa lịm tan vào đất. Chính chị ra
chợ thị trấn mua tấm lịch in hình đôi diễn viên mặt mũi láng mịn về treo
trong nhà, khi cấn bầu đứa đầu lòng.
“Nếu nhìn mỗi ngày con tụi
mình sẽ đẹp y chang họ”, chị nói, bữa Tam đóng đinh treo tờ lịch lên
vách buồng.
Một trong hai diễn viên đó
Tam từng gặp vào cuối năm ngoái, khi anh ta ngồi húp bún bò trong quán
chợ Cùng. Tảng mỡ bụng đội lên chạm vào cạnh bàn, anh diễn viên tiến
hàng răng sâu vào phần sụn của cái giò heo bảo đảm không còn sót gì, mặc
kệ con ruồi ò e trên mặt và tiếng kêu tuyệt vọng của con mèo hoang chực
hờ dưới chân. Tối qua anh ta hát trong một đại nhạc hội có cả tiết mục
khỉ đi cầu khỉ. Tam nghe nói anh ta ca tới điệp khúc thì rớt mic, nhưng
tiếng hát anh vẫn oang oang thấm ướt sang tận những xóm không đèn bên
kia sông. Tam trải bạt bán mớ đọt bí đối diện chỗ anh diễn viên ngồi,
nhớ tấm lịch đôi trai gái treo ở nhà, bị xé đến nửa mặt. Một bữa mưa
nào, trong nhà không có thứ chi nhen lửa, vợ Tam đã xé nó. Nửa còn lại
cứ phơ phất vậy, mỗi ngày mỗi bạc đi.
Thằng con đầu lòng của Tam
rốt cuộc có giống chàng người lịch kia không, anh không nhớ rõ. Trẻ sơ
sinh chẳng đường nét gì, cứ múp mềm, và đỏ. Nhưng đứa bé con Tam nhìn
trong hơn, căng mọng hơn tụi con nít khác. Nó nằm trên chiếc chiếu manh.
Chiếu ướt. Vợ anh thay tã, tã vẫn ướt. Chị gói nó trong chiếc khăn dày
hơn, khăn ướt. Y tá ở trạm xá chạy lại lật mọi thứ ướt ra ngẫm nghĩ,
chạy đi gọi ông bác sỹ duy nhất của trạm. Ông rờ tay vào những khăn,
chiếu ướt, ái ngại nhìn vào mặt người sản phụ tràm trụa ướt, nói “thằng
nhỏ chảy nước”.
Với Tam, chảy nước nghĩa
là vô vọng. Thằng Mạnh đầu lòng, thêm nhỏ em nó một năm sau. Chúng rỉ
nước đến xẹp xuống, chỉ còn trái tim phập phồng sau xương ức, rồi trái
tim kia cũng nhỏ giọt. Không ai có thể ngăn được nước rỏ ra từ những
sinh thể yếu ớt. Những trái dưa hấu đang chín gặp mưa mà anh chưa kịp
cắt dây, chúng nứt ra, chảy nước. Và nước chảy từ những gốc hành bị đàn
chuột gặm đứt gốc đêm trước, từ trong đất rẫy sau mỗi trận lũ sông Cùng,
luống cải xà lách qua cơn mưa đá.
Tam cứ tơ mơ nhớ trong lúc
ngồi chờ gã xa lạ dọn cơm. Con Mốc quấn bên chân gã, rít lên. Mừng, đau,
giận, con vật chỉ dùng duy nhất một biểu cảm. Vợ Tam đi tắm, và trở ra
với bộ quần áo tử tế nhất sào. Chị chỉ mặc nó khi đi giỗ quảy trong xóm.
Dù sao, nhà có khách.
Đó là một ngày mưa tháng
Sáu, vợ chồng Tam bị những đám mây sũng nước rượt đuổi, về tới nhà họ
bắt gặp một kẻ lạ mặt. Họ cố nhớ coi có phải một người họ hàng gần, hay
chính là thằng nhỏ bên xóm hồi xưa.
Nhưng không có cái tên nào
được xưng, gã người lạ chỉ nói về cây mù u vô dụng sau vườn, “Chỗ đó
trồng cây ổi còn có lý”. Mặc định như đôi bên đã thông thuộc nhau rồi,
ngay cái cách gã đào bới cơm cháy đắp vào chén Tam, thứ anh khoái nhất.
Nhiều câu hỏi quẩn trong đầu anh, nhưng uốn lưỡi mãi chẳng nảy ra một
chữ nào, Tam sợ khách sẽ tổn thương nếu anh hỏi nhà gã đâu, đã vợ con gì
chưa, đi đâu mà trôi nổi tới đây, ông bà già còn mạnh giỏi. Những câu
hỏi kiểu vậy sẽ làm gã khua đũa e dè lại nhìn nhận lại thực tại mình chỉ
là kẻ xa lạ, khách qua đường.
Và sáng mai, khi mưa tạnh
gã sẽ phải rời khỏi nhà Tam. Anh nghĩ vậy, dù gã chẳng đưa ra một hứa
hẹn nào. Nhưng ngay lúc này, vị khách không mời đang soi vào sự tiều tụy
của căn nhà bị bỏ rơi. Họ mặc kệ nó, bởi lũ chuột đông nghịt cánh rừng
bên cạnh rẫy, bởi mưa nắng vô chừng, sự lặp lại tẻ nhạt của được giá mất
mùa được mùa mất giá. Kiệt sức, còn bởi những cơn giày vò không dứt,
- Đồ chó anh đã xách con
tôi về nhà chỉ bằng một tay.
- Tay kia tôi rảnh chắc.
Không thì cái giỏ ai cầm ?
- Anh coi thằng nhỏ như
con gà giò, quỷ thần ơi
- Cô chỉ biết xỉu lên xỉu
xuống, sao không giỏi bồng nó ?
- Thằng nhỏ là con anh đó.
Bao giờ tới câu nói đó,
Tam cũng chịu thua. Anh gằm đầu bỏ đi chỗ khác. Tam thua ngay cả trước
chuyến đi tới một bệnh viện xa xôi để hỏi tại sao những đứa trẻ sơ sinh
bình thường khác thì bú, khóc, đái dầm và ỉa cứt su lại có những đứa trẻ
mắt nhắm hờ, trong veo và chảy nước. Trước khi cô bác sỹ nhìn Tam đầy ái
ngại và nói “anh chị không nên sinh thêm đứa con nào” thì lúc ngồi xe
đò, ngoái lại tuổi nhỏ chạy nhảy trên cánh đồng cỏ quéo ngọn, nhớ con
kinh nước trong thấu đáy không con cá nào bơi mà thằng bé Tam vục mặt
uống cho đỡ khát lúc chạy chơi, đôi tay đứa bạn bên xóm có màng như chân
ếch, thằng Trụi sinh ra như củ khoai, không chân tay. Trên chiếc xe đò
đường dài đó, Tam đã biết mình thua, anh căng áo che nắng cho vợ ngủ
ngồi bên cạnh, hy vọng hành động đó làm chị bớt cục cằn,
- Anh còn không chảy chút
nước mắt làm thuốc.
- Khóc xong nó sống lại
chắc ?
- Con nhỏ cũng là con anh
đó
Họng nghẹn thì tay chân
nói, nhiều xế trưa Tam thức dậy thấy vợ đâm muối hột đắp lên chỗ bươu
mọc lên từ chính tay anh. Người anh cũng đầy vết cào rướm máu, đôi khi
là dấu răng ngập sâu đếm được bao nhiêu cái. Cũng không nhớ bao nhiều
lần anh bị đạp văng ra đất lúc đang đi sâu vào trong chị, và giọng vợ
như âm thanh kim loại cọ vào nhau, “muốn tôi đẻ nữa sao ?”. Vào những
ngày cả đôi đều xây xước, Tam đều tự hỏi, người đàn bà kia không bỏ đi,
là bởi hai nắm đất sau vườn?
Căn nhà bị bỏ mặc, lá mục
chái sau rớt vào cơm canh cũng thường. Rách như nhà của người già, của
những kẻ sống tạm bợ chờ chuyển tới một nơi nào đó. Nhà Hai Thây, dân
xóm Cùng gọi hang ổ của Tam vậy, “hai vợ chồng nó thở vậy thôi, nhưng
chết rồi”.
Nhưng chỉ có khách, mới
thấy cái tổ mà hai thây chui ra chui vào tệ cỡ nào.
“Un mẻ này muỗi không dám
xáp vô đâu mà lo”, gã nói trong lúc thổi cho một gộc cây nặng trịch bắt
lửa. Lấy cái mền dù xếp dưới đáy tủ ra làm gối, gã khoan thai trải người
dài ra bộ vạc ăn cơm. Kẽ ván lưu cửu mùi nước mắm, dưới vạc con Mốc cào
móng thành một khoảng tròn như cái thúng, đêm nào nó cũng nằm ở đó, đôi
khi sực nhớ mình là chó, bèn cất tiếng sủa bóng cây. Tiếng sủa y như
tiếng khóc.
Mưa từ chiều tới nửa đêm
dịu lại. Vợ Tam bò ngang bụng chồng ra cửa buồng thò đầu ngó ra chái sau
rồi quay trở lại, nói,
- Ngủ rồi.
Nằm day mặt về phía vợ,
Tam thấy chị bỗng xa lạ với bộ đồ thun điểm bông rơi, giọng thì thào,
dõi theo kẻ đột nhập với vẻ hứng thú hơn là thù nghịch, cách chị ngó vô
cái kiếng nứt hình mạng nhện lúc ngang qua. Xa lạ cả khi chị ngủ rồi,
thảnh thơi, không u ơ nói mớ.
Tam không biết mưa đã tạnh
chưa, tiếng nước rớt trên những tàu lá nhẹ bẫng kia là sương hay đang
mưa mỏng, thứ mưa gần như vô hình, chỉ có thể cảm nhận bằng da thịt.
Nhìn qua chỗ dột trên mái nhà, khó biết mây đã tan, hay vẫn còn oằn cả
bầu trời, mưa đã tạnh dứt hay chỉ ngừng một lúc trước khi quay lại trút
nước. Trườn mình ra khỏi giường, tim Tam đập mạnh khi ngang qua chỗ gã
khách ngáy đều, nhón chân như một kẻ trộm sợ chủ nhà thức giấc. Khoảnh
khắc đó, Tam nhận ra anh sợ cả con Mốc sẽ cất tiếng sủa khi nhìn thấy
một bóng người lủi thủi bước ra sân. Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư
Dùng bản Tư gởi
|