NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
Còn nhớ, chừng vài chục năm trước, tôi có những lần chuyện trò với một
họa sĩ đã từng hành nghề đắp mặt nạ để lưu lấy khuôn mặt người, nên hay
có nhận xét về kiểu loại những khuôn mặt đáng chú ý. Có hôm nhân nói về
nhà văn Nguyên Ngọc (lúc ấy ông đang là Tổng biên tập tuần báo “Văn
Nghệ” của Hội nhà văn Việt Nam), anh ấy nhận xét: Ông Ngọc có khuôn mặt
trẻ, trẻ thơ, thậm chí trẻ con, như là không bao giờ già!
Tôi thoáng nhớ tới nhận xét ấy khi nghĩ về anh Ngọc, đường văn của anh,
tiến triển tư tưởng và hoạt động văn hóa xã hội của anh.
Nét thứ nhất ở Nguyên Ngọc là vai trò nhà văn; một nhà văn đa năng, sáng
tác thành công trong nhiều thể
tài văn xuôi, hư cấu và phi hư cấu, tự sự và nghị luận, lại cũng có đóng
góp đáng kể trong hoạt động dịch thuật.
Vào đời là người lính, anh sớm được giao làm báo, từ đấy tập viết văn.
Nếu ai được đọc một vài trang truyện ký của tác giả này trước 1954, hẳn
sẽ nói đó là thứ văn minh họa, dễ dãi trong nhìn người nhìn việc. Thực
ra công chúng chỉ biết đến tên tuổi nhà văn Nguyên Ngọc kể từ tiểu
thuyết “Đất nước đứng lên” (1955). Tác giả được giao đề tài viết thành
tích anh hùng chiến sĩ, đã cho phép mình thoát cái khung khổ truyện ký
gò bó để phóng bút thành tiểu thuyết. Ở tác phẩm này, nay nhìn lại sẽ dễ
thấy tính minh họa biểu hiện lộ liễu. Song ít ra vẫn còn một điểm ghi
nhận được, ấy là sự lựa chọn, sáng tạo trong phong cách ngôn ngữ. Viết
bằng tiếng Việt câu chuyện những con người thuộc các sắc tộc Tây Nguyên
mà tiếng Việt không là bản ngữ, tác giả đã tạo ra một giọng kể cùng các
giọng nói tiếng Việt theo lối thơ ngây, có khi ngờ nghệch, ngồ ngộ,
nhưng bao giờ cũng chất phác, chân chất. Phong cách ngôn ngữ thơ ngây sẽ
còn được Nguyên Ngọc vận dụng thành công trong các tập truyện “Rẻo cao”
(1962) viết về vùng cao Tây Bắc, và “Rừng xà-nu” (1969) cũng viết về
vùng núi Tây Nguyên.
Các bạn văn cùng thời với ông ở tạp chí “Văn nghệ quân đội” từng nhận
xét: bên cạnh ngòi bút viết truyện ở Nguyên Ngọc còn một ngòi bút nghị
luận, chính luận. Ngay trong văn xuôi, bên cạnh phong cách thơ ngây trữ
tình, ông còn tìm tòi viết truyện trong phong cách suy tư, cật vấn các
vấn đề đời sống hiện tại. Truyện “Mạch nước ngầm” (1959) viết về công
trường xây dựng trên miền Bắc, đã làm nhói lên những câu hỏi ngờ vực mở
ngỏ về con người, ngay ở lớp cán bộ, sĩ quan. Luồng dư luận cứng rắn đã
kịp lên tiếng chất vấn tác giả, trước lúc Nguyên Ngọc lên đường vào Nam,
trở lại vùng Liên khu V, rồi xuất hiện trên báo chí miền Bắc với bút
danh mới: Nguyễn Trung Thành, với nhiều truyện ngắn, bút ký, nổi tiếng
nhất là bút ký “Đường chúng ta đi” (1965) kêu gọi giục giã bạn trẻ đương
thời lên đường vô Nam “chống Mỹ cứu nước”.
Dòng viết về chiến tranh ở Nguyên Ngọc dường như tạm dừng ở tiểu thuyết
“Đất Quảng” tập 1 (1971). Tác giả trở ra Bắc, là sĩ quan (hàm đại tá),
được xem là cán bộ nguồn để cơ cấu cho các bộ máy lãnh đạo, như Phó Tổng
biên tập tạp chí “Văn nghệ quân đội”, đại biểu Quốc hội (1976-1980), Bí
thư Đảng đoàn Hội nhà văn VN, Phó Tổng thư ký Hội nhà văn VN (khóa 2),
Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn VN khóa 3 (1983-89), khóa 4
(1989-1995).
Từ cuối những năm 1970s, trước giới nhà văn và công chúng dần dần hiện
diện rõ rệt một Nguyên Ngọc trong vai trò cán bộ lãnh đạo văn nghệ. Nổi
bật nhất là vai trò Tổng biên tập tuần báo “Văn nghệ” những năm cao trào
Đổi mới (1987-1989).
Nhưng trước đó, Nguyên Ngọc đã rơi vào một tai nạn văn chương, do bản đề
dẫn anh viết và đọc tại hội nghị nhà văn đảng viên (10/3/1979), tuy chủ
yếu nói theo diễn ngôn quy ước thời bao cấp về nền văn nghệ bao cấp hậu
chiến, nhưng cũng đụng tới vài nhược điểm của nó (tình trạng “có sách
mới in ra mà không có tác phẩm”, người viết bối rối, thiếu niềm tin; lý
luận phê bình thô thiển kéo dài, “hạ thấp
văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao
nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực”), làm phật
ý một vài lãnh đạo cấp cao. Lúc này đang có sự tranh chấp ngấm ngầm giữa
những quan chức từ chiến trường ra với những quan chức vẫn yên vị ở hậu
phương; Nguyên Ngọc chưa phải cán bộ cấp cao, chỉ nằm trong số những
nhân sự dưới quyền các quan chức đang giành nhau quyền thế. Có lẽ sự
thất thế của ông là do không đủ mềm mại hạ mình trước sự cao ngạo của
vài quan chức cấp cao. Song chính vấp váp trong môi trường quan liêu lại
khiến Nguyên Ngọc có dịp nhìn sâu hơn vào cơ chế bao cấp, nhận ra những
nhược điểm căn bản của nó.
Vì vậy, khi công cuộc đổi mới được đảng cầm quyền phát động (1986), ông
được số khá đông trong giới nhà văn ủng hộ đảm nhận vị trí Tổng biên tập
tuần báo “Văn nghệ”. Dưới sự điều hành của ông, báo “Văn nghệ” trở thành
một diễn đàn lớn của công cuộc đổi mới, tập hợp được đông đảo nhà văn,
nhà báo, văn nghệ sĩ, tích cực cổ vũ tư tưởng đổi mới tư duy, đổi mới
hành động, ủng hộ việc đảng cầm quyền chuyển nền kinh tế chỉ huy quan
liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa thị trường; đồng thời cũng khơi lại
việc thảo luận các vấn đề văn nghệ cốt thiết, qua đó, giới nhà văn tỏ rõ
ý muốn tiết giảm việc “sáng tác phục vụ chính trị”, khẳng định quyền tự
do sáng tác, thực chất là đòi lại những điều kiện hoạt động văn nghệ
thông thường nhưng đã bị xóa bỏ suốt thời bao cấp. Dưới thời Tổng biên
tập Nguyên Ngọc, tuần báo “Văn nghệ” giành được sự quan tâm chưa từng có
của độc giả, được đánh giá là một trong vài ba tờ báo sáng giá nhất ở
vài năm cao trào đổi mới; đây là một vinh quang không thể lặp lại. Dưới
thời Tổng biên tập Nguyên Ngọc, báo “Văn nghệ” đã phát hiện được những
tài năng văn học lớn (Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, v.v.),
thúc đẩy văn học bao cấp đóng kín chuyển sang văn học hậu bao cấp cởi mở
hơn, tiếp cận dần dần hướng đi của các nền văn học bên ngoài.
Những đấu tranh về phương hướng đổi mới ở cấp cao diễn ra đồng thời với
những tranh chấp trong giới quan chức văn hóa-tư tưởng, đã dẫn tới việc
Nguyên Ngọc bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo “Văn nghệ” (1989). Nhưng
vai trò quan chức văn nghệ của Nguyên Ngọc còn kéo dài đến đầu năm 1995,
khi ông vẫn còn là ủy viên chấp hành Hội NVVN khóa 4 (1089-1995).
Từ những năm 1990s, nhất là từ đầu thế kỷ XXI, trước công chúng ngày
càng rõ Nguyên Ngọc như một trí thức dấn thân, một tiếng nói phản biện
chân thành.
Lúc này, Nguyên Ngọc có thời gian cho mình nhiều hơn. Ông tham gia việc
chuyển thể tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” sang màn ảnh; ông tham dự
những chuyến đi tìm dấu tích con đường đưa vũ khí vào Nam bằng đường
biển và có tập ký sự “Có một con đường mòn trên biển Đông” (2000). Ông
có nhiều dịp trở lại xứ Quảng quê hương, trở lại đất Tây Nguyên núi rừng
trùng điệp khi xưa, chứng kiến cuộc di dân ồ ạt đang đổ về đây. Ông tận
mắt thấy rừng già ngàn năm bị phá bỏ làm dâu tằm, cà-phê, bị đào xới để
khai mỏ, bị san lấp làm thủy điện, gây ô nhiễm từ rừng núi xuống đồng
bằng, tận mắt thấy thế giới vẹn nguyên bản sắc của các tộc người Tây
Nguyên bị thu hẹp, đứng trước nguy cơ bị hủy hoại, tan rã…
Ở Nguyên Ngọc, bản năng nhạy cảm của nhà văn như đã làm liền mạch cái
tinh thần trách nhiệm của người cán bộ tuyên huấn có bản lĩnh tương đối
độc lập khi xưa với sự phản tỉnh giàu suy tư của người trí thức dấn thân
hôm nay. Những điều ông chứng kiến luôn luôn thôi thúc sự suy nghĩ, đào
sâu tìm tòi phân tích, đúc rút thái độ và phương châm hành động.
Đụng chạm một Tây Nguyên đang đổi thay nguy hiểm, ông tìm đọc lại dịch
lại những công trình khảo cứu dân tộc học Tây Nguyên của các học giả
Pháp, nhận ra triết lý sống tự nhiên nhân bản của những tộc người miền
núi mà khi xưa ông đã kể về họ bằng thứ ngôn ngữ chất phác thơ ngây,
cũng phần nào là hệ quả cái nhìn đơn giản hóa về họ hồi ấy nơi ông.
Đụng chạm những rối rắm của công việc điều hành và duy trì một đại học,
ông tìm hiểu và nhận ra những khủng hoảng ở một nền giáo dục thiếu triết
lý sáng rõ.
Đụng chạm những phân hóa gia tăng trong giới nhà văn, ông tự ôn lại phần
“bảo thủ” hồi trước (cứ đứng nguyên trong cái “hội” bao cấp này mà viết
ủng hộ cuộc đổi mới cũng được chớ sao!), đi tới ý tưởng mới: “Văn học và
nhà văn không là công cụ của ai hết!”, chỉ khuyến nghị đồng nghiệp cầm
bút cùng xây dựng nền văn học tiếng Việt tự do nhân bản.
Đụng chạm những tranh cãi bất tận trong các giới về con đường phát triển
đất nước, ông tìm hiểu lại các bậc tiền bối đầu thế kỷ XX và tìm thấy ở
tư tưởng Phan Châu Trinh một lý giải, một kiến giải khả thủ, tuy đã bị
hạ thấp và xa lánh suốt một thế kỷ. Phan Châu Trinh đặt vấn đề phát
triển đất nước chứ không phải bằng mọi giá giành độc lập; độc lập chỉ có
ý nghĩa khi dân tộc mình phát triển được bằng người. Nguyên Ngọc tin
rằng tư tưởng đó của Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên ý nghĩa chỉ đường
cho người Việt hiện tại.
Năm nay đã ở tuổi 85, sức vóc không còn đủ săn chắc, nhưng tinh thần,
chí khí Nguyên Ngọc vẫn mạnh mẽ, dứt khoát. Phần khá đông trong giới nhà
văn Việt Nam vẫn nhìn về Nguyên Ngọc như một người anh Cả đáng tin cậy.
Phần khá đông trong giới trí thức Việt Nam vẫn nhìn về Nguyên Ngọc như
một tấm gương dấn thân can đảm. Nguyên Ngọc là niềm tin, niềm tự hào của
chúng tôi.
18/10/2017
LẠI NGUYÊN ÂN
T |