Ba tôi, người đã có một cuộc đời tuyệt diệu
Hoàng Dương Tuấn
Thấm
thoát đã một
năm kể từ ngày ba mãi
mãi ra đi.
Một
đồng nghiệp của tôi đã
viết
“Dù biết ngày này không thể tránh khỏi, sự ra đi của bác Tụy
vẫn
để lại khoảng trống và mất mát. Bác Tụy là một người phi
thường trong giới trí thức Việt Nam, không chỉ như một nhà khoa học mà còn
là người đấu
tranh cho những gì
bác tin. Đóng góp
của ông cho khoa học, giáo dục và cho
dân
tộc
Việt Nam là
vô song. Tôi
như mất một người thân vì
tôi biết
bác.
Dường như mới hôm qua bác
và bác gái
tới Melbourne và ký
ức về ăn Bò
Bảy
Món với 2 bác vẫn sống động. Tôi trân trọng những kỷ niệm như vậy và tôi
cảm thấy hãnh
diện
được biết
bác.
Bác
đã
ra đi nhưng di sản
của ông luôn luôn
còn mãi
với chúng ta.”
Giáo sư Pierre Darriulat, người bạn gần gũi
của
ba đã
nói với
tôi “Cha anh là người đàn
ông phi thường và sự
ra đi của ông là một mất mát lớn. Cha anh lo
cho đất nước hơn là
cho bản
thân. Ít có những người
thật
như vậy”.
Những
người
bạn
của
ba đã viết
"ông coi công danh phú quí chỉ
là phù vân, nhưng phải
sống
cuộc
đời
có nhiều
ý nghĩa, dù khó khăn đến
mấy
cũng tin vào một
tương lai tươi sáng của
Dân tộc
ta, một
Dân tộc
đau thương và quật
khởi".
Giờ
đây, đọc
đi đọc lại bài viết
của
ba về
thủ tướng Phạm
Văn Đồng,
tôi mới
hiểu
rõ thêm vì sao ba lại có và sống với niềm tin không dao động như vậy.
Ba bắt đầu sự nghiệp như một nhà giáo khi chưa đầy 20 tuổi từ những năm
đầu kháng chiến chống Pháp.
Vào thời kỳ mà người ta dễ dàng buông xuôi nhiều thứ để giữ đất và bảo
vệ cuộc sống, dân tộc ta đã có được nền giáo dục xuất thần và phát triển
một cách kỳ lạ. Trường Lê Khiết nơi ba dạy, vốn là miền đất nghèo khổ và
thiếu học, đã phát triển tới qui mô vượt cả trường trung học thời thực
dân ở Qui Nhơn. Cả giáo viên lẫn học sinh đều có niềm tin vào sức mạnh
giải phóng của giáo dục với những ước mơ thật lãng mạn. Ít có một dân
tộc nào lại làm được đồng thời cả hai việc lớn là đánh giặc và phát
triển giáo dục. Ngôi trường
Lê Khiết khiêm tốn ở Quảng ngãi đó đã sản sinh
nhiều
văn nghệ sỹ, nhà
giáo, nhà khoa học chân chính. Họ là những người yêu quê hương, yêu con
người đến tận đáy tâm hồn và để lại nhiều di sản giáo dục, tinh thần cho
thế hệ sau. Rồi vào thời điểm ác
liệt nhất của cuộc chiến tranh Việt nam, trong những giờ phút lâm nguy
phải sơ tán tránh những cuộc oanh tạc không kích muốn đưa miền Bắc Việt
Nam về thời ký đồ đá mà Thủ
tướng vẫn cất lên tiếng nói “Khoa học nâng con người ta lên”. Là người
làm khoa học đã hơn 30 năm ở những nước phát triển, tôi chưa bao giờ
nghe được câu nói sâu sắc như thế.
Tôi không bao giờ quên những lần nói chuyện với
ba. Ba đau đớn khi thấy đất nước
qua bao thử thách khốc liệt thời chiến lại
bỏ lỡ biết bao cơ hội phát triển trong thời bình,
những nề nếp giáo dục hay khoa
học may mắn có được từ thời chiến không những không được giữ gìn hay
phát huy mà bị lụi tàn bởi những quan điểm hẹp hòi mà cứ tưởng là cách
mạng. Quá nhiều những thứ phát triển không giống một ai, thương mại hóa
không tha một lĩnh vực nào mà vẫn coi đó là phát huy và sáng tạo. Chúng
tôi đã tranh luận rất nhiều về lý tưởng, về những cái giá của dân tộc
phải trả sau hai cuộc chiến. Tôi vẫn nhớ ba nói ngày xưa trong chiến
tranh, những người cộng sản là những người đi đầu. Ba luôn nhắc thế hệ
tôi không sống trong bối cảnh đó nên không hiểu được nỗi nhục của một
đất nước bị nô lệ. Khi đi dạo dọc bờ sông Hương ba kể say sưa thời thanh
niên ba đã bơi qua sông Hương do tụi Tây thách thức. Nhiều lần
khi đi nghỉ
cùng gia đình tôi, ba và tôi đi dạo
riêng nghe ba chia sẻ những day dứt về của ba về thời cuộc, “trong khi
khắp thế giới thay đổi, thì VN vẫn cứ kiên định con đường tối tăm, không
tương lai, nhiều vị vẫn vô
tư, không thấy trách nhiệm, chỉ lo…sắp xếp các ghế ngồi”.
Ba hay nhắc
chuyện ông Phạm Văn Đồng nói với
ba lúc cuối đời “Tôi buồn lắm, buồn vô cùng”.
Một lần vào năm 1987, khi tôi chỉ những dòng báo ca ngợi ông Phạm
Văn Đồng là vị thủ tướng lâu đời nhất thế giới, ba bảo họ “quên” nói ông
Đồng cũng là thủ tướng ít quyền nhất thế giới. Giờ tôi đọc lại bài viết
về Phan Châu Trinh của học trò ba thời Lê Khiết. Phan Châu Trinh đã tìm
ra nguyên nhân mất nước, dân tộc sa vào vòng nô lệ thảm khốc là ở trong
văn hóa, trong sự lạc hậu quá xa về văn hóa của dân tộc so với đối thủ
của mình. Ông không chỉ đặt vấn đề độc lập, ông đặt vấn đề xa hơn, căn
bản hơn: phát triển, cho văn minh bằng thiên hạ. Bi kịch lịch sử là ông
hầu như hoàn toàn cô độc về tư tưởng và đường lối trong thời của mình.
Tôi vẫn giữ đầy đủ những
email ba kể
vắn
tắt
những
việc
ba làm như tổ
chức
hội
thảo
hàng tuần
về
giáo dục
và những
kiến
nghị
cải
cách giáo dục,
sách giáo khoa, rồi
cùng các đồng
nghiệp
ở
Viện nghiên cứu phát triển đưa ra những
kiến
nghị,
góp ý, kêu gọi.
Đến tận tháng 5 năm 2018, sau khi mẹ tôi mất ít lâu và ba đã bắt đầu
yếu, ba vẫn nói sang sảng với tôi về tầm nhìn của lãnh đạo cao nhất
trong những giờ phút khó khăn quan trọng như thế nào với đất nước. Ba
đặt vấn đề “vậy tầm nhìn ngoài chuyện đánh tham nhũng là
gì”? Mấy tháng trước khi mất, ba đồng ý cho xuất bản cuốn “Xin
được nói thẳng” tập hợp nhiều bài viết của ba trong thời gian dài trên
các báo về những vấn đề sống còn của xã hội. Ba nói ba hy vọng cuốn sách
đó kích thích sự đổi mới của đất nước. Các bài viết trong sách được sắp
xếp rất khoa học, dẫn dắt người đọc từ phân tích cơ bản những khuyết tật
của hệ thống dẫn đến xã hội tham nhũng đầy những khối u dị dạng nên chỉ
có tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống toàn diện mới giải quyết được vấn
đề. Người tài và bản lĩnh người lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất.
Phải có những đột phá trong giáo dục và quản lý khoa học mới có hy vọng
dân tộc thích ứng với thời đại
kinh tế trí thức thay đổi cực nhanh.
Tôi biết vì những bài đó mà có
thời các báo được chỉ đạo không được phỏng vấn ba. Tôi biết có báo đã bị
ngừng hoạt động 9 tháng và toàn bộ ban biên tập bị kỷ luật chỉ vì đăng
một bài của ba. Máy tính xách tay có nhiều bài ba đã viết và đang viết
bỗng dưng bị mất cắp. Sức
đã yếu lắm mà ba vẫn hỏi về phản
hồi của độc giả vể cuốn sách. Có anh Phúc thủ tướng đã gửi thư đến thăm
hỏi và phản hồi tốt. Nhớ lần đầu gặp mặt ở Sài Gòn cuối năm 2016, anh
Phúc có nói tôi “mình tổ chức sinh nhật 70 năm ba cậu
khi còn làm chủ tịch ở Quảng nam đấy”. Tôi lại nhớ được xem video
ghi lại quê hương Điện bàn vinh
danh ba nhân dịp ba 70 tuổi, ghi lại những lời nói chân thành và mộc mạc
của quê hương về ba. Mỗi lần về quê, ba đều kể cho tôi với niềm tự hào.
Ba nhắc một Hội An phát
triển đàng hoàng một phần nhờ có ông bí thư Sự giỏi và có tầm nhìn.
Ba không chỉ là người cha, ba là
người thầy
và là thần
tượng
của
tôi, là
người dẫn
dắt
tinh thần
và
luôn chia sẻ những giờ phút khó khăn nhất.
Càng ngày tôi càng thấm lời ba nói sau khi
ông Phạm Văn Đồng mất rằng ba thật sự buồn vì
ba mất
nơi chia sẻ tâm tư, nhiều khi chỉ vài câu ngắn ngủi
nhưng
động
viên
thật
nhiều.
Thật nhớ những dòng ngắn ngủi của ba như
“ Con nên giữ sức khoẻ và luôn giữ vững tinh thần, dù khó khăn gì
cũng không ngại, miễn mình làm việc đứng đắn, công tâm,. Lao động vất
vả, nghiêm túc như con kể thì có gì mà lo. Đừng để khó khăn đè mình
xuống mà phải đứng trên mọi chuyện. Ba đã từng gặp những chuyện cực ký
căng thẳng hồi ở ĐH Tổng hợp Ba và bác Thiêm bị tụi nó đấu lên bờ xuống
ruộng, định quật ngã cả Ba và bác Thiêm nhưng cuối cùng tụi nó cũng
chẳng làm được gì minh, dù chúng nó có một lực lượng quan chức mao-it ở
cấp trên ra sức ủng hộ. Tất nhiên hồi đó tụi nó gây cho mình rất nhiều
khó khăn, Ba cũng có lúc rất nản, nhưng rôi Ba tập trung làm khoa học,
chính thời kỳ này Ba nghĩ ra global optimization. Cừ vùi đầu làm khoa
học, bỏ ngoài tai mọị chuyện khác, phởt lờ, quên bớt đi, rồi cuối cùng
sẽ vượt qua được khó khăn” và “các điều kiện của con như vậy cũng là mãn
nguyện rồi, còn cái gì hơn nữa thì xem như phần phụ thêm, có càng hay,
không cũng chẳng sao. Nhiều người cũng chỉ mơ ước chừng đó thôi mà. Ai
đó nói muốn sống có hạnh phúc thì nên biết chừng nào là đủ, cái triết lý
ấy cũng đúng. Ở các nước như Úc thì cạnh tranh trong xã hội là một áp
lực, ở đó không thể thoải mái theo kiểu làm bao nhiêu cũng được, mọi nhu
cầu đều có thể ỷ lại vào bao cấp, chẳng phải lo nghĩ nhiều-như trong xã
hội ảo tưởng vớ vẩn mà bao năm nay, cho đến tận bây giờ, vẫn được đưa ra
tuyên truyền lừa dối dân mình”.
Khi
tôi
nhỏ,
ba
dạy về phân số để tôi
sau đó
tự học.
Cuối
năm cấp 2,
ba
dạy đọc sách toán phổ thông tiếng Nga để giúp tôi
tự tìm
sách
học
thêm.
Những cuốn sách
tiếng Nga cùng
những mẩu
chuyện hấp dẫn ba kể trong những bữa ăn về những nhà toán học, rồi tấm
gương ba nghiên
cứu
ngày đêm
đã giúp
tôi say mê học toán với
ước mong theo
con đường khoa học
của ba. Khi sang học ở Liên Xô,
tôi được
gặp
những người bạn nổi tiếng nhưng bình
dị
của ba.
Tôi hay đến nhà
giáo sư Zykov, chuyên gia hàng đầu
về lý
thuyết
đồ thị.
Giáo sư Zykov kể
hồi
ông
ở
Novosibirsk, ba có đưa một
kết
quả
rất
độc
đáo về
bài toán đồ
thị
nên có 1 chương trong cuốn
sách "Lý thuyết
đồ
thị"
của
ông là về
phương pháp Hoàng Tụy.
Có
lần
sinh nhật ông, con gái ông bảo ngày sinh nhật là ngày của gia đình
nhưng cha tôi sẽ
rất vui khi có cậu đến. Hôm
tôi bảo vệ chính thức luận
án PhD, ông và
cả
gia đình
đến
dự làm cả trường tôi ngạc nhiên, họ không tin là có người nổi tiếng vậy
đến dự lễ bảo vệ của tôi. Đến ông thầy hướng dẫn của tôi cũng hỏi sao
cậu còn
quen biết
giáo sư Zykov
à.
Một
người
bạn khác của ba là giáo sư Rubinstein, nguyên
là học
trò
của
Kantorovich-nhà toán học duy nhất đoạt giải Nobel về Kinh Tế
năm 1975. Từ những năm 60 thế kỷ trước, khi thế giới còn chưa có thuật
ngữ “tin học”, Rubinstein
cùng
Kantorovich đã đưa ra bài toán giao thông thông tin mà ngày
nay thế giới đang nghiên
cứu
nhiều.
Họ
trong số
những
nhà khoa học
hàng đầu
của
Liên Xô đến
lập
ra thành phố
khoa học
nổi tiếng ở Novosibirsk. Năm
1987,
khi
tôi
đến Novosibirsk dự hội nghị của sinh viên,
Rubinstein
đến
gặp
và
đưa tôi về
ở nhà ông luôn. Mấy buổi đi dạo cùng ông toàn gặp các cây đa cây đề
trong ngành,
không là viện
sỹ thì
cũng giải
thưởng Lê
Nin hay
giải
thưởng
nhà
nước Liên Xô. Sau mỗi
lần
chào họ,
ông hay kể
cho tôi những
câu chuyện
rất
thú vị
họ
được
giải
thưởng
tầm
cỡ
như vậy
vì những
công trình gì, những
đóng góp gì. Không khí chính trị
khi đó thông thoáng hơn và chúng tôi cũng hay nói những
chuyện
hài hước
chính trị.
Là người từng
tham gia cuộc
chiến
tranh giữ
nước
vĩ đại,
ông bảo
"trên màn
ảnh
thì cứ
làm như tụi
Đức
ngu lắm,
nhưng tại
sao đánh nhau với
họ
khó thế".
Ông
kể rất nhiều chuyện hay về Kantorovich,
người tốt
nghiệp
đại
học
khi 18 tuổi,
thành giáo sư khi 22 tuổi,
và làm ra những công trình được giải Nobel năm 27 tuổi.
Kantorovich không những
là nhà toán học
mà còn là nhà kinh tế
học.
Ai cũng biết giá cả các mặt hàng của Liên Xô thời đó chẳng theo một qui
luật kinh tế nào. Kantorovich có nói rằng nếu chúng ta xuất khẩu cách
mạng đi toàn
thế
giới thì
cũng nên để
1 hòn
đảo
là
chủ
nghĩa tư bản chứ nếu không thì
không biết
giá cả các mặt hàng thế nào.
Rubinstein nói nhiều
về
ba, về những
công trình của
ba về
tối
ưu đầy
cảm
phục
và đầy
sức
thuyết
phục.
Ông nói có nhiều
người
có những
kết
quả
hay, nhưng để
xây dựng
được
thành một
lý thuyết
hay như ba thì không nhiều.
Ông khuyên tôi hãy tìm vị
trí của
mình trong khoa học
và đi theo con đường
của
ba.
Giờ
đây, sau hơn 30 năm nghiên cứu,
điều
mà tôi tự
hào với
bản
thân nhất
có lẽ
là đủ
sức
và trí tuệ
để
làm theo những
lời
khuyên của
ba, với
tác phong nghiên cứu
Hoàng Tụy.
Hồi
tôi nhỏ,
ba hay kể
chuyện
ba tự
học
rồi
nhẩy
cóc, ba nghĩ nên tạo
điều
kiện
để
học
sinh, sinh viên giỏi
có thể
nhẩy
cóc. Đến
cuối
năm thứ
3 đại học, tôi muốn tốt nghiệp sớm nhưng không được vì để
tốt
nghiệp,
ai cũng phải
học
rất
nhiều
các môn ngoài lề
khác như Kinh tế
chính trị
Mác-Lê Nin hay Chủ
nghĩa cộng
sản
khoa học.
Nhưng nhờ
vậy
và nhờ
có "máu" nghiên cứu
khoa học
của
ba, tôi tận
dụng
được
2 năm cuối
tập
trung học
hỏi
nghiên cứu.
Luận
án PhD của
tôi hoàn toàn là kết
quả
của
2 năm nghiên cứu
này, với
3 bài báo đăng trên tạp
chí có tiếng
của
Liên Xô. Điều
tôi đáng tiếc
nhất
có lẽ
là không học
tiếng
Anh nghiêm chỉnh
thời
nghiên cứu sinh. Triết
lý của
ba rất
đơn giản
và dễ
hiểu:
muốn
hợp
tác với
phương Tây thì cần
biết
họ
đang quan tâm những
vấn
đề
gì, phải
có những
công trình đăng
ở
các tạp
chí phương Tây, có những
bài báo viết
tiếng
Anh. Tuy có ý thức
đọc
các tạp
chí phương Tây để
hiểu
xu hướng
nghiên cứu
của
họ
nhưng tôi lại
không hề
học
cách viết
một
bài báo khoa học
bằng
tiếng
Anh. Mãi tới
năm cuối
thời
sinh viên PhD là năm 1990, tôi gửi
cho ba 2 bài báo tôi viết
bẳng
tiếng
Nga để
ba dịch
sang tiếng
Anh và đăng
ở
phương Tây. Lúc đó ba đang
ở
Áo và ba đã cặm
cụi
dịch
sang tiếng
Anh, in lại
bài báo (thời
đó đây là công việc
rất
nhọc)
và đưa cho đồng
nghiệp
bên đó xem trước
cũng như hỏi
ý kiến
họ
nên gửi đăng
ở
đâu. Ba không kể
nhưng sau này tôi biết,
thời
gian đó có những
lúc ba phải
nằm
viện
mổ
răng, đau đến nỗi bác sỹ đã phải gây mê.
Ba có một
người
bạn
Nhật
rất
đặc
biệt
là giáo sư Mitsui
ở
trường tổng
hợp
Nagoya. Ông chính là người đề xướng và cùng các nhà toán học Nhật đóng
góp giúp viện Toán xây dựng nhà khách năm nào. Thần
tượng
của
Mitsui là Hồ
Chí Minh nên khi sang thăm Việt
Nam ông mua
ảnh
chân dung Hồ
Chí Minh về
treo. Bước
vào phòng làm việc
của
ông sẽ
thấy
ngay
ảnh
Hồ
Chí Minh. Các đồng
nghiệp
của
ông
ở
Việt
Nam sau kể
với
tôi là hồi
đó tìm mua
ảnh
Bác Hồ
rất
khó vì ngoài hiệu sách toàn
ảnh
chân dài.
Ở
trường Nagoya có một
nhóm phản
đối
chiến
tranh Việt
Nam thời
những
năm 70 gồm
Mitsui, Torii và Hosoe. Với họ, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp là những tên tuổi lớn. Giáo sư Hosoe
là chuyên gia hàng đầu
của
Nhật
bản
về
lý thuyết
điều
khiển,
ngành của
tôi. Năm 1993, tôi liên lạc
với
giáo sư Hosoe qua giới
thiệu
của
giáo sư Mitsui và được
ông mời
đến
Nagoya làm seminar. Sau seminar đó 2 tháng thì ông mời
tôi tới
Nagoya một
lần
nữa.
Khi gặp,
ông bảo
giờ
chúng tôi phỏng
vấn
để
tuyển
anh làm trợ
lý nghiên cứu
cho nhóm của
tôi, và dẫn
tôi sang một
phòng có mấy
giáo sư nữa
để
phỏng
vấn!
Lần
đầu
tiên trong đời
mới
nghe từ
phỏng
vấn
và hoàn toàn không chuẩn
bị!
Ít lâu sau, ông thông báo là tôi đã được
nhận.
Rồi
nhờ
có những
bài báo tiếng
Anh của
tôi, trong đó có bài được
một
giáo sư nổi
tiếng
ở
Boston (Mỹ) khen đã giải
quyết
được
bài toán mà lâu nay bao nhiêu chuyên gia chưa giải
được,
ông đưa tôi lên làm giảng
viên, thay một
giáo sư vốn
là thầy
của
ông vừa
về
hưu. Khi tôi đến
chào trưởng
khoa kỹ
thuật
của
trường
(dean of engineering) để
bắt
đầu
công việc
vào tháng 4 năm 1994, tôi được nghe mình là giáo sư trẻ
nhất
trong lịch
sử
của
trường.
Ở
Nhật,
nhất
là trong lĩnh vực
kỹ
thuật
ở
những
trường
lớn,
họ
thường
có bằng
PhD tương đối
muộn
và sau đó làm trợ
lý nghiên cứu
khá lâu trước
khi được
làm giảng
viên là bậc
thấp
nhất
trong ngạch
giáo sư. Chưa hết, sau tôi mới thấy lúc đó chỉ có tôi và một giáo sư lớn
tuổi người Bungaria là người nước ngoài trong hàng ngũ giáo sư, chứ trợ
lý nghiên cứu người nước ngoài thì hầu như nhóm nghiên cứu nào
cũng có, nhiều người trong số họ vốn là giáo sư nữa. Cùng
là lý thuyết
điều
khiển
nhưng các vấn
đề
mà phương Tây quan tâm và Liên Xô quan tâm hoàn toàn khác nhau: lý thuyết
điều
khiển
bên phương Tây nghiên cứu
những
bài toán điều
khiển
thực
tế,
có thật,
nhưng lý thuyết
điều
khiển
của
Liên Xô bị
những
nhà toán học
thuần
túy dẫn
dắt
nên nghiên cứu
toàn những
thứ
tự
tưởng
tượng
không ai biết
để
làm gì. Hosoe có nhiều
lần
nói với
tôi sau này rằng
thực
ra ông chẳng
hiểu
gì nội
dung seminar của
tôi cả,
nhưng cảm
nhận
tôi là người
làm việc
rất
hăng say và có kiến
thức
cơ bản
tốt
và ông cần người
như vậy.
Ông nói tự
hào về
quyết
định
đúng đắn
nhất
này! Tôi được
làm việc
thoải
mái chỗ
ông 5 năm và ông trở
thành người
bạn
lớn
và gần
gũi nhất
của
gia đình chúng tôi. Vợ
chồng
ông đã
ở
bên tôi trong bệnh
viện
khi chờ
vợ
tôi sinh con. Sau khi ba mất,
một
lần
vợ
tôi nói qua điện
thoại
với
ông rằng
giờ
chúng tôi chỉ
có ông như bậc
cha chú trong gia đình và vì vậy
cuối
tháng 11 năm ngoái vợ
chồng
ông lại
lục
tục
sang Úc thăm chúng tôi. Đến
cuối
năm, khi nhà tôi đi nghỉ
ở
Hokkaido, cả
gia đình ông cũng lên đó cùng. Con gái tôi khi có tin gì vui về
chuyện
học
hành trước
đây bao giờ
cũng gọi
cho ông nội
đầu
tiên, giờ
thì gọi
cho ông Hosoe đầu
tiên. Khác với
người
Việt,
người
Nhật
không gọi
nhiều
người
là bạn,
nhưng một
khi đã là bạn,
họ
là những
người
đáng tin cậy nhất.
Cũng như ba, Hosoe là người
không nói nhiều
nhưng làm thầm
lặng
và giúp đỡ,
che chở
người
khác rất
nhiều.
Bước
ngoặt
quyết
định
trong cuộc
đời
làm khoa học
của
tôi là được
làm việc
với
giáo sư Hosoe 5 năm, chịu
khó và đàng hoàng theo lời
khuyên và tấm
gương của
cha mình. Có lần
khi nghe vợ
tôi nói là sao việc
gì tôi đã làm là cũng cố
gắng
làm đến
đầu
đến
đũa rất
mất
sức
thì ba rất mừng,
ba bảo
vậy
là con giống
cha. Trong 5 năm đó, nghiên cứu
của
tôi cũng chuyển
sang hướng
mới
là áp dụng
các phương pháp tối
ưu vào các bài toán khó trong điều
khiển,
và được
hợp
tác với
ba, nghiên cứu học hỏi những kết quả của ba, và ước mơ có được một vài
kết quả hay như một số kết quả của ba.
Năm 1997 khi đến
Nagoya, ba mừng
khi nghe tôi làm việc
có kết
quả
và có nhiều
cơ hội
thăng tiến.
Ba kể
chuyện
đề
xuất
với
ông Võ Văn Kiệt
mở
trường
Toán công nghiệp,
một
trong những
mục
đích là để
tạo
môi trường
làm việc
cho những
người
như "tụi
mày". Ba đã rất
tâm huyết
với
dự
án đó. Năm sau ba nói ba rất
giận
ông Kiệt
đã không đả
động
gì thêm sau những
lời
ủng
hộ
ban đầu.
Mãi về sau ba mới
biết
dự
án này không thực
hiện
được
vì một
lý do rất
lãng xẹt
không phải
từ
ông Kiệt.
Năm 2000, khi tôi hỏi
ý kiến
ba về
chuyện
xin vào công dân Nhật
để
có hộ
chiếu
đi lại
các nước
cho dễ
dàng, ba nói tổ
quốc
ở
trong tim chứ
không phải
ở
tấm
hộ
chiếu
để
đi lại.
Năm 2003, giữa
lúc đang
ở
vị
trí nhiều
người
mơ ước
và sắp
được
bổ
nhiệm
lên vị
trí quan trọng
của
trường,
tôi quyết
định
rời
nước
Nhật
của nền
công nghệ
tiên tiến
bậc
nhất
thế
giới
sang nước
Úc phát triển
chủ
yếu
bằng
cách đào tài nguyên xuất
khẩu
thô. Ông hiệu trưởng bảo
tôi là "khùng" vì đang
ở
vị
trí như thế
ở
nước
Nhật
lại
sang vị
trí thấp
hơn
ở
nước
Úc lạc
hậu
(về
mặt
công nghệ).
Trước
khi rời
Nhật,
ba cũng qua chỗ
tôi. Khi nghe vợ
tôi than chuyện
phải rời
nước
Nhật,
ba nói ba rất
hiểu
Tuấn,
nó đang
ở
độ
tuổi
sáng tạo
nhất
nên muốn
dành hết
sức
cho khoa học.
Ba luôn nói tôi đang có điều kiện mà thời ba không thể mơ được nên hãy
hết lòng về khoa học. Hai năm cuối
ở
trường,
do sắp
được
"đề
bạt"
nên tôi phải
tham gia quá nhiều
cuộc
họp,
khiến
còn rất
ít thời
gian cho nghiên cứu.
Giờ
tôi vẫn
nhớ
cảm
giác căng thẳng
như thế
nào khi mỗi
sáng đến
trường,
đang say mê với
những
ý tưởng
khoa học
một
chút là bị
cắt
ngang bới
cú điện
thoại
của
thư ký "mời
giáo sư đi họp".
Nói vậy chứ làm sao so sánh được với hoàn cảnh ba những năm 60 thế kỷ
trước, khi ba ngày làm việc, tối chong đèn viết kiểm điểm và giải trình
chuyện “chuyên môn thuần túy” mà không “hồng”. Có vị lãnh đạo cao nhất
của ban Tuyên giáo đã đe: trường đại học không phải là nơi để các anh
nghiên cứu khoa học. Không thể tưởng tượng nổi “qui hoạch lõm” của ba đã
được ra đời trong hoàn cảnh đó.
Năm 2004, lần đầu tiên gia đình tôi về Việt nam. Ba mẹ tôi rất mừng. Khi
nghe con tôi muốn ăn sữa chua, ba bảo để ba đi mua. Lần đầu tiên trong
đời tôi thấy ba đi siêu thị ở Việt nam. Mới mấy hôm mà ba mẹ đã rạng rỡ
hẳn vì vui. Năm 2008, tình cờ
tôi viết cho ba mẹ là cuộc sống bên Úc khó khăn hơn nhiều so với tôi
nghĩ, tiền lương có được bao nhiêu thì cho vào khoản trả nợ nhà băng
tiền mua nhà gần hết, thêm các khoản chi phí cho cuộc sống ngày càng
tăng nữa thì có khi không đủ. Vậy mà khi bạn tôi về Việt nam công tác,
ba mẹ tôi nhờ anh mang sang 10 ngàn đô Mỹ giúp chúng tôi. Hơn ai hết, ba
hiểu được những đồng tiền làm ra ở phương Tây đâu có dễ dàng như nhiều
người nghĩ. Dù tôi ở đâu, ba cũng quan tâm sao cho tôi tập trung nghiên
cứu. Ba mong chúng tôi về nhưng không nói để khỏi ảnh hưởng đến thời
gian nghiên cứu của tôi. Chỉ sau khi mẹ tôi mất, khi tôi viết sẽ thăm ba
mấy tháng một lần, ba mới trả lời: ừ con về, ba chờ.
Tháng 7 năm 2018 ba bắt đầu ốm nặng. Chị tôi nhắn, mấy hôm nay ba thường
xuyên nhắc tôi. Nghe vậy tôi liền gọi để nghe ba. Giọng ba yếu và ba chỉ
nói đi nói lại rằng ba rất tự hào về tôi. Tôi nghe vậy buồn hơn là vui
vì dường như ba đã thấy không còn nhiều sức, không còn nhiều thời gian
trên cuộc đời này. Nửa năm sau, sức khỏe ba có tốt hơn chút và khi gặp
tôi, ba bảo: ba mong có sức khỏe để sang Úc thăm gia đình con.
Cuối tháng 6 năm 2019, tôi về thăm ba. Biết trước tôi sẽ đến lúc
9 giờ sáng, ba hỏi cô chăm sóc mấy giờ rồi. Khi nghe là 8 giờ sáng, ba
bảo: vậy là còn một tiếng nữa con tôi sẽ tới, nó là giáo sư bên Úc. Ba
quá vui khi thấy tôi nên chị tôi bảo “Tuấn mà ở lại lâu chắc ba hết
bệnh”. Ba vẫn còn nhớ con tôi
năm nay thi vào đại học Y và ba bảo ba biết ở các nước phương Tây thi
vào trường Y khó lắm. Ba sinh động hẳn lên khi tôi ghé tai ba đọc bưu
thiếp tiếng Anh trong trẻo cháu gửi ông nội: “Dear
Grandpa, I hope you will feel better soon! I miss you a lot while
in Australia, so I hope to see you soon after I complete my HSC this
year! Next year I hopefully will stay in Vietnam for a long time so I
can visit you often! Stay healthy and happy and I will see you soon.
Here is you with your new book” (Ông ơi, cháu muốn ông mau khỏe. Ở Úc
cháu rất nhớ ông và cháu muốn thăm ông ngay sau kỳ thi đại học. Năm sau
cháu sẽ ở Việt Nam lâu để thăm ông thường xuyên. Khỏe và vui ông nhé và
cháu sẽ gặp ông sớm. Cháu vẽ ông cầm quyển sách mới của ông). Nhưng ba
biết sức lực của mình và ba nói tôi: chắc lần này con gặp ba là lần cuối
nên ba chào con.
3 tuần sau, ngày 14 tháng 7 năm 2019, ba đã ra đi mãi mãi. Như ba đã
viết cho tôi cách đây 5 năm “Về phần cá nhân, Ba vẫn luôn thanh thản. Cả
đời mình sống tử tế, có trách nhiệm, nên trong tâm bao giờ cũng nhẹ
nhàng”, và “Nhiều lần tình cờ trong bệnh viện hoặc trong các buổi gặp gỡ
thân mật có những người mình mới gặp lần đầu nhưng cũng bày tỏ với sự
ngưỡng mộ chân thành của họ, những lúc ấy Ba cảm thấy đời không đễn nỗi
quá bạc bẽo với mình mà xét ra cũng thật công bằng. Mình sống thế nào,
dù có những lúc khó khăn, gần như bế tắc, nhưng rồi cuối cùng tấm lòng
và sự thanh sạch bao giờ cũng được đền bù xứng đáng, tuy có khi muộn
màng”. Ông đã nói với hậu thế
“Tôi mong tất cả các bạn tiếp tục con đường dù tôi có chết đi” trước lúc
ra đi. Ba ơi, con luôn tự hào là chưa bao giờ có một ý nghĩ nào khác
ngoài tiếp tục con đường của ba.
|