Tình thế của những nhà nghiên cứu văn học
(Để tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Nghĩ về con đường của những nhà nghiên
cứu văn học Việt Nam hiện đại thuộc thế hệ Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Văn Tâm…, tôi thường suy ngẫm về cái
tình thế mà họ đã trải qua từ khi vào nghề cho đến lúc hoàn thành sự
nghiệp. Đó là cái tình thế đặc biệt, tình thế mà những tác giả
Phê bình và cảo luận, Dưới mắt
tôi, Thi nhân Việt Nam, Nhà văn hiện đại…không gặp phải và những nhà
nghiên cứu hiện nay có lẽ cũng không hình dung được.
Những người viết lịch sử khoa nghiên
cứu, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX chắc chắn phải tìm hiểu hoàn
cảnh nào đã đưa những tác giả nói trên đến chọn lựa nghề nghiệp mà họ
gắn bó suốt hơn nửa thế kỷ nay. Phải chăng là họ có thể đi một con đường
khác: làm chính trị, làm kinh tế, nghiên cứu khoa học tự nhiên, dịch
thuật hay sáng tác… Nếu như thế thì họ đã có một sự nghiệp, chưa hẳn đã
yên bình hơn, nhưng chắc chắn để lại cho đời những công trạng khác, và
đem lại cho họ một cuộc sống khác.
Sau 1945, những văn nhân thi sĩ như
Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài…, dù có những
trăn trở, giằng xé, cũng thích ứng được với bước ngoặt lịch sử và khẳng
định được vị trí phù hợp với sở trường của mình. Trong khi đó, hầu hết
những nhà nghiên cứu, phê bình văn học lớp trước đều có những đứt gãy
khiến họ xa rời lĩnh vực đã từng làm nên tên tuổi họ: Thiếu Sơn đi vào
hoạt động xã hội, Trương Chính chuyên tâm với nghề giáo, Vũ Ngọc Phan
chuyển sang văn học dân gian, Nguyễn Bách Khoa vướng vào
Nhân
văn – Giai phẩm…
Phải chăng là cái khoảng
trống mà các nhà nghiên cứu lớp trước để lại là một thuận lợi cho những
nhà nghiên cứu đến sau? Câu trả lời có thể là vừa có, vừa không. Khi
không còn những “mẫu mực” để kế thừa, người ta sẽ rộng đất hơn để thể
hiện, nhưng cũng phần nào cảm thấy bơ vơ và lúng túng, nhất là khi họ
phải tuân thủ những “mẫu mực” mới. Thú thật, là kẻ hậu sinh, lớn lên
trong một hoàn cảnh khác, tôi không hiểu được tâm thế của những nhà
nghiên cứu khi họ dấn thân vào nghề vào cuối những năm 50 – đầu những
năm 60 ở miền Bắc. Liệu họ có hình dung cái tình thế mà họ sẽ đối diện
và những gập ghềnh mà họ phải vượt qua hay không?
Trong thực tế, tình thế khó khăn và tế
nhị mà những nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại gặp phải còn lớn
hơn gấp bội lần so với những nhà nghiên cứu văn học cổ điển hay văn học
nước ngoài. Những tranh luận về văn học cổ điển hay nước ngoài, nếu có,
dễ được giải quyết bằng những chứng cứ và chứng lý khoa học hơn là đối
với những hiện tượng văn học diễn ra ở đây, thời này, vốn chưa được thời
gian thử thách. Làm văn học Việt Nam hiện đại tưởng như dễ dàng hơn về
tư liệu, nhưng sự soi chiếu về lý thuyết lại có những lấn cấn, ràng buộc
mà sự chính xác của tư liệu nhiều khi cũng phải xếp xuống hàng thứ yếu.
Chính từ đây đặt ra cho những nhà
nghiên cứu văn học hiện đại vấn đề thái độ ứng xử. Đó là sự ứng xử với
những hiện tượng văn học còn tươi rói, ứng xử với những tác giả cùng
thời, ứng xử với các luồng dư luận có “quyền lực mềm” của nó. Những nhà
nghiên cứu văn học hiện đại dành công sức cho những ứng xử này có lẽ
không ít hơn công sức họ dành cho việc khảo sát các hiện tượng văn học
một cách nghiêm nhặt, bằng những thao tác khoa học. Chỉ cần thống kê
những đề tài và số lượng bài viết mà họ dành cho một hiện tượng văn học
cụ thể, với tần số những lời khen, lời chê, ta sẽ nhận ra điều đó.
Theo thiển ý, Nguyễn Đăng Mạnh là một
trong những trường hợp tiêu biểu cho cách ứng xử với tình thế để tự
khẳng định phẩm giá của mình với tư cách một nhà khoa học. So với nhiều
nhà nghiên cứu cùng thế hệ, ông là người không dính đến quan chức
(trưởng khoa, trưởng ban, viện trưởng…); nhưng về danh hiệu khoa học thì
ông không kém ai (giáo sư, nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà nước…).
Đối tượng nghiên cứu của ông hầu hết là những hiện tượng văn học đích
thực, ít có những đề tài gì khiến người ta có thể trách cứ ông là xu
thời. Và điều quan trọng là trong những công trình của mình, ông đã phát
huy đến mức tối ưu sở trường cảm thụ tinh tế
và năng lực diễn đạt thành những văn bản có tính chất sáng tạo,
như những văn bản nghệ thuật thứ hai. Những gì ông viết về Nguyễn Tuân,
Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Xuân Diệu…chứng minh điều đó.
Nếu những ứng xử có tính chất “đắc nhân
tâm” trong nghiên cứu có thể làm cho người ta mệt mỏi, thì việc chọn lựa
và bảo vệ những giá trị văn hoá lại tạo
ra một niềm vui lớn, giúp vượt qua những nhọc nhằn của nghề nghiệp.
Nguyễn Đăng Mạnh vốn không phải là người “sùng bái” những lý thuyết văn
học mới, vì ông đã có một “định hướng” ưa thích của mình là đi tìm cái
đẹp trong những phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông cũng là người không
ưa “tầm chương trích cú”, không ưa tỉ mẩn so sánh, đối chiếu văn bản…
Nhưng công phu chọn lọc để trích dẫn và bình giảng một câu thơ hay, một
đoạn văn đẹp cho thấy nghề nghiên cứu cũng là một loại “phu chữ” nặng
nề, cực nhọc. Đào sâu và nối dài ý nghĩa của những giá trị văn học bằng
sức thuyết phục của ngôn ngữ chính luận và giọng văn cảm xúc, nhiều bài
phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh chiếm vị trí hàng đầu của những ý kiến có
chọn lọc và sáng suốt nhất trong một thời kỳ văn học.
Nguyễn Đăng Mạnh là người kỹ tính trong
thẩm văn, bình thơ. Nhiều hiện tượng văn học từng gây xôn xao dư luận
cũng không dễ thu hút ngòi bút của ông. Trong đời sống văn học, thiết
nghĩ, rất cần những người kỹ tính như vậy, chính điều này góp phần tạo
ra sự “cân bằng sinh thái học” trong sáng tác, nghiên cứu, phê bình.
Trong văn chương, cái đáng chê là sự buông tuồng, suồng sã, xuê xoa và
dễ dãi. Trong đào tạo, những người như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh lại càng
phải kỹ tính và chặt chẽ hơn nữa khi góp phần cho xuất xưởng ngày càng
nhiều những tiến sĩ và thạc sĩ văn học trên đất nước ta.
Có thể nói Nguyễn Đăng Mạnh sinh ra
là để làm văn. Ông là người chí thú với nghề nhưng có lẽ cũng là người
hiểu sâu sắc những bạc bẽo của nghề. Nghề văn vừa đem lại danh tiếng,
vừa bắt phải trả giá cho danh tiếng. Được và mất, hạnh phúc và tổn
thương đi liền với nhau. Có lẽ đó cũng là đặc điểm của tình thế, trong
đó không chỉ những tiếng chê mà cả những lời khen cũng có thể gây ngộ
nhận, không chỉ những điều nói ra mà cả những điều không nói ra cũng có
thể bị cho là có ngụ ý. Ở đây, không chỉ nói đến tình thế xã hội, mà cả
tình thế văn hoá, phong tục…Nhưng làm sao người ta có thể tự nhấc chân
ra khỏi hoàn cảnh của mình, để tìm chỗ ẩn náu nào bình yên, không va
chạm?
Ngày trước, nghĩ về nghề văn, Tản Đà
từng viết: “Tôi từ khi theo về nghề quốc văn kể có tới gần mười lăm năm,
lên bổng xuống trầm, vào trong ra đục, phong trần chẳng quản, phi nghị
mặc ai, thực cũng mong tựa văn chương để có ít nhiều sự nghiệp […]. Cũng
trong mười lăm năm mà tôi theo về quốc văn đó, đến nay hồi tưởng lại,
chỉ thấy cuộc đời như trò rối, mình chẳng qua là một đứa ra oai. Bao
nhiêu những cái cảnh bóng chìm trong đục, nhất thiết không có thú vị gì;
có hứng thú ít nhiều, chỉ có ở những lúc làm được những câu đắc ý. Những
lúc đó, không những một mình thú riêng với câu văn, mà lại có cái thú
đối với những ai tình cảm ở mặt nước chân mây, tinh thần giao tiếp, dẫu
xa xa ngoài bốn biển mà như họp mặt trong một nhà” (Sự
nghiệp văn chương, Đông Pháp thời báo, ngày 17-12-1927).
Nhà nghiên cứu cũng như người sáng tác
là những người góp phần bảo toàn khuôn mặt tinh thần của giới trí thức
một dân tộc. Qua những gì mà họ viết ra cũng như cách mà họ hành xử các
mối quan hệ, có thể nhìn thấy phẩm chất và lương tri của tầng lớp trí
thức, nội lực và tầm văn hoá của một dân tộc. Xã hội nhìn vào họ, đòi
hỏi ở họ, nhất là trong những tình thế đặc biệt, vừa xây dựng được sự
nghiệp, vừa bồi dưỡng được lương tri. Kẻ hậu sinh là chúng tôi, nhìn con
đường chông gai mà thế hệ bậc thầy như
giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đi qua, dẫu nghĩ đến cái phù phiếm
của sự nghiệp văn chương để cho lòng thêm thanh thản, cũng không khỏi lo
ngại về con đường xa tắp còn hiện ra trước mắt mình.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
|