Thơ Nhất Hạnh:
những hóa thân mầu nhiệm
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
1.
Thiền sư
Nhất Hạnh là một tác gia lớn của văn hóa Việt Nam. Ông cũng là một nhà
thơ hiện diện trong đời sống văn học đã hơn sáu thập niên. Ngoài ba tập
thơ xuất bản thời trẻ mà trước đây ít người được biết (Tiếng
địch chiều thu, NXB Long Giang, Sài Gòn, 1949;
Ánh xuân vàng, ký bút danh Hoàng Hoa, NXB Long Giang, Sài Gòn, 1950;
Thơ ngụ ngôn, ký bút danh
Hoàng Hoa, NXB Đuốc Tuệ, Sài Gòn, 1950); trước năm 1975, thơ Nhất Hạnh
chủ yếu công bố trên các tạp chí Phật học (Phật
Giáo Việt Nam, Hải Triều Âm,
Thiện Mỹ,
Liên Hoa,
Hướng Thiện, Giữ Thơm Quê Mẹ…),
và hai tập thơ đặc sắc là Chắp
tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1965) và
Tiếng đập cánh loài chim lớn
(NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1967). Cả hai tập đều ấn hành không có giấy phép
của chính quyền Việt Nam Cộng hòa: tập đầu in nhiều lần, phổ biến rộng
rãi; tập sau, do một trận hỏa tai, gần như tuyệt bản.
Thơ
Nhất Hạnh còn đi vào công chúng bằng con đường âm nhạc của Phạm Duy,
Phạm Thế Mỹ và chính tác giả cũng phổ nhạc cho lời thơ của mình. Nhiều
bài thơ của Nhất Hạnh được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, thậm chí phổ
biến qua những thư ngỏ quảng bá hoạt động từ thiện. Ở nước ngoài, cùng
với tuyển tập Thơ từng ôm và mặt
trời từng hạt (NXB Lá Bối, Walnut Creek, California, 1996) được ấn
hành, ông đã có bảy tập thơ được chuyển ngữ:
Vietnam Poems (Unicorn Press,
Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1967); The
Cry of Vietnam (Unicorn Press, Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1968);
Le Témoin reste (Phái đoàn
Phật giáo Việt Nam tại Paris xuất bản, Pháp, 1970);
Zen Poems (Unicorn Press,
Greensboro, Hoa Kỳ,1976); De
Schreeuwvan Vietnam (Uitgeverij Ten Have, Baarn, Hà Lan, 1995);
Call me by my true name
(Parallax, San Francisco, Hoa Kỳ, 1995);
En passant le pont (La Boi
Editeur, Walnut Creek, California, 2002)[1].
40
năm sau ngày hòa bình và 10 năm sau chuyến trở về nước lần đầu của tác
giả, thơ Nhất Hạnh mới chính thức trở lại với đời sống văn học trong
nước qua trọn bộ bốn tập gồm Thơ
từng ôm và mặt trời từng hạt,
Tiếng đập cánh loài chim lớn,
Truyền đăng tục diệm, Thơ học
trò (NXB Hội Nhà văn và Phương Nam Book, 2015). Sự tái xuất hiện này
có thể nói là khá muộn màng so với nhiều nhà thơ ở miền Nam khác (Nguyên
Sa, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, Trụ Vũ, Viên
Linh, Tuệ Sỹ, Du Tử Lê, Hoàng Trúc Ly…), ngay cả so với những sáng tác
và trước tác khác của chính Nhất Hạnh, như
Bông hồng cài áo,
Nói với tuổi hai mươi,
Nẻo về của Ý… và hàng loạt
sách về Phật học.
Khi
chuẩn bị viết bài này, tôi chủ ý tìm đọc những bài viết về thơ Nhất Hạnh
và nhận thấy những nghiên cứu về thơ ông, tuy có những ý tưởng sâu sắc
như của Morgan Gibson[2],
Đặng Tiến[3]…,
nhưng chưa thật tương xứng so với tầm vóc của tác phẩm. Sự quan tâm bàn
luận dành cho hành trạng và sự nghiệp lập ngôn về Phật học của Nhất Hạnh
- thiền sư nhiều hơn là dành cho tiếng nói nghệ thuật của Nhất Hạnh -
thi sĩ. Cuốn sách quan trọng giúp bạn đọc hiểu được bối cảnh sáng tác và
thông điệp của thơ Nhất Hạnh là
Thử tìm Dấu chân trên cát của Chơn Không Cao Ngọc Phượng (NXB Lá
Bối, 1980). Ở miền Nam trước 1975, Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng là soạn giả
đầu tiên và duy nhất đưa tác phẩm văn xuôi của Nhất Hạnh vào sách giáo
khoa. Cũng vì tái xuất hiện muộn màng mà thơ Nhất Hạnh chưa thành đối
tượng nghiên cứu trong các trường đại học và chưa được nhắc đến nhiều
trong không gian học thuật.
Tôi
cố gắng tìm câu trả lời về nguyên nhân của tình hình đó. Và trong khi
tìm câu trả lời, tôi cũng rút ra cho mình mấy nét phác thảo về đặc trưng
thơ Nhất Hạnh khiến ông trở thành một cõi thơ riêng, giữ một vị trí khác
biệt trong thơ ca Việt Nam hiện đại, mà có lẽ sự dè dặt từ phía những
nhà phê bình không chỉ vì lý do chính trị.
2.
Là
sáng tạo của một thiền sư, thơ Nhất Hạnh không nằm ngoài truyền thống
thơ Thiền Việt Nam khởi đi từ thời Lý – Trần với Thiền sư Vạn Hạnh,
Thiền sư Mãn Giác… Những công trình khảo cứu của ông (Việt
Nam Phật giáo sử luận, Thả
một bè lau…) cho thấy một trí huệ sâu sắc và uyên áo về truyền thống
Thiền học trong văn chương cổ điển Việt Nam. Đối với thơ hiện đại, ông
thật tinh nhạy khi chọn ra để bình giải những câu thơ mang đẫm chất
Thiền vị của Quách Thoại, Trụ Vũ… Và với tư chất thi sĩ, cảm hứng Thiền
học là một nguồn cảm hứng lớn của thơ ông. Những bài thơ
Sở y (“Nương tựa vào đâu/
Pháp trần hình thành/ Trên sắc thanh hương vị xúc/ Nét chữ xóa đi trong
bản nháp tưởng tượng/ Xóa đi hay không cần xóa đi/ Nương tựa/ Tìm đâu
chốn về?/ Ưng vô sở trụ”), Đại
trượng phu (“Cửa tùng đôi cánh khép/ Một mũi tên sáng loáng lìa dây
cung/ Lao vút tới/ Mặt trời nổ tung/ Đầy sân hoa cam rụng/ Phảng phất
bóng vô cùng”), Padmapani
(“Mười bông hoa trên trời/ Mười bông hoa dưới đất/ Sen nở trên mi Bụt/
Sen nở trong tim người/ Bồ tát cầm đóa sen/ Dáng nghiêng trời nghệ
thuật/ Trên cánh đồng sao mọc/ Nụ cười trăng mới lên/ Tàu lá dừa màu
ngọc/ Vắt ngang lưng trời khuya/ Tâm đi trong tĩnh mặc/ Bắt gặp chân như
về”) là những bài thơ Thiền không lẫn vào đâu được. Đó là những bài thơ
Thiền thuần túy nằm trong các tập
Dấu chân trên cát, Chắp tay
nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện và
Tiếng đập cánh loài chim lớn.
Nhất Hạnh còn có ba tập thơ Thiền trọn vẹn là
Tích môn bản môn,
Truyền đăng tục diệm và
Nến ngọc. Ít nhiều có tính
chất minh họa cho kinh Phật, ba tập thơ này đòi hỏi người đọc phải có
kiến thức sâu sắc về Phật học mà bản thân chúng tôi tự thấy chưa đủ sự
chuẩn bị để tiếp nhận.
Nhưng
sẽ thiếu sót nếu chỉ đi tìm chất Thiền trong những bài thơ thuần khiết
đó. Bởi một trong những nét độc đáo của thơ Nhất Hạnh là chất Thiền hòa
kết nhuần nhị với chất Đời. Nếu đạo Phật đi vào cuộc đời là hành trình
xuyên suốt của tư tưởng Nhất Hạnh, thì thơ Thiền rút từ tinh chất của
đời sống và trở về với đời sống là một hệ quả tất yếu. Nhất Hạnh nhiều
lần dạy chúng ta tập thở như một phương pháp trị liệu (Thở
vào, tâm tĩnh lặng/ Thở ra, miệng mỉm cười…): thơ ông là hơi thở tại
thế mà cũng là hơi thở tự thiền môn.
Nói
thơ Thiền gắn liền với đời sống như trên cũng là cách nói sách vở, như
muốn chứng minh cho một nguyên lý văn học: năng tri không tách rời sở
tri. Nhất Hạnh có những bài thơ vượt lên trên cả năng tri và sở tri, khi
sự chưng cất đạt đến độ viên mãn thành những khái quát nghệ thuật mà
không phải là minh họa cho Phật học. Một dẫn chứng tiêu biểu là bài thơ
Đề Thiền Duyệt Thất ông gửi
lại cho Hòa thượng Thanh Từ trước ngày giã từ Phương Bối Am:
Gối nhẹ mây đầu núi/ Nghe gió
thoảng hương trà/ Thiền Duyệt tâm bất động/ Rừng cây dâng hương hoa/ Một
sáng ta thức dậy/ Sương lam phủ mái nhà/ Hồn nhiên cười tiễn biệt/ Chim
chóc vang lời ca/ Đời đi về muôn lối/ Quan san mộng hải hà/ Chút lửa
hồng bếp cũ/ Ấm áp bóng chiều sa/ Đời vô thường vô ngã/ Người khẩu Phật
tâm xà/ Niềm tin còn gửi gắm/ Ta vui lòng đi xa/ Thế sự như đại mộng/
Quên tuế nguyệt ta đà/ Tan biến dòng sinh tử:/ Duy còn Ngươi với Ta.
3.
Làm
thơ từ lúc 12 tuổi, khi còn là một chú tiểu, Nhất Hạnh đã cảm nghiệm và
chứng thực tất cả những khổ đau của dân tộc và kiếp người (Này
bạn hỡi, hãy cùng tôi đi viếng/ Những cảnh đời u uất dưới trần gian/
Những đau thương rền rĩ cháy tâm can/ Trên mặt đất thương tâm còn diễn
tả…, Con đường thoát khổ). Thơ Việt Nam hiện đại không hiếm những
tác phẩm tái hiện những bước đi trầm luân của đất nước và con người,
nhưng có lẽ Nhất Hạnh là tác giả làm chứng bền bỉ nhất, mạnh mẽ nhất,
bằng ngôn ngữ thơ ca, những khổ nạn trên quê hương, do chiến tranh và
thiên tai ập đến những mái tranh nghèo, những gầm cầu xó chợ và những
phận người trôi dạt.
Trong
hoàn cảnh cực đoan, những thăng trầm lịch sử, những bi kịch đau xót, dù
chỉ gợi lên như những nét vẽ của tâm cảnh, cũng không tránh được sự cắt
nghĩa từ những chỗ đứng khác nhau, thậm chí xung đột với nhau. Thơ văn
Nhất Hạnh từng rơi vào vòng xoáy đó và đã gây ra không ít ngộ nhận về
thế đứng của ông trong cuộc chiến tương tàn trước đây. Cả công cuộc vận
động cho hòa bình Việt Nam của ông cũng gây ra không ít ngộ nhận, khi
đứng trước phán xét: có lợi cho ai?
Đối thoại – cánh cửa hòa bình,
Hoa sen trong biển lửa,
In search of the enemy of man
(addressed to Martin Luther King)
với ngôn ngữ chính luận, từng bị phán xét như vậy. Huống chi là ngôn ngữ
hàm súc của thơ, với những phân vân mơ hồ giữa “ngữ thái” và “ngữ ý”,
khiến cho những câu thơ như “con
rắn hổ mang uống xong giọt sương khuya trên đầu ngọn cỏ, bỗng cảm thấy
tiêu tan nọc độc trên lưỡi mình/ và những mũi tên tẩm thuốc của loài ma
nở thành bông hoa khi bay đến” từng bị xem như những ẩn dụ mang dụng
ý chính trị[4].
Tác phẩm Nhất Hạnh từng bị chỉ trích từ cả hai phía trong cuộc tranh
chấp, thậm chí vào năm 1980 có người đã viết: “Tập thể Phật tử bây giờ
mà mất Nhất Hạnh thì cũng như không mất gì” (!).
Việc
phân tích và đánh giá thơ Nhất Hạnh không thể thoát khỏi hoàn cảnh cực
đoan đó, hoàn cảnh chưa phải đã được hóa giải cho đến bây giờ. Người
bình luận thơ Nhất Hạnh có thể vẫn còn mắc vào những tình huống gây ngộ
nhận từ công chúng, bởi vì không dễ gì có sự đồng thuận giữa người viết
và người đọc, để cùng vượt lên những từ ngữ mà vươn tới chất thơ như kết
tinh của văn hóa, như vượt qua ngón tay để hướng tới mặt trăng. Sự dè
dặt, cho đến lúc này, là điều dễ hiểu.
4.
Nhất Hạnh không chỉ là nhà thơ, cũng không chủ yếu là một nhà thơ. Ông
là nhà tư tưởng, là cây bút chính luận triết học và Phật học, là nhà văn
xuôi nghệ thuật, nhà hoạt động văn hóa và xã hội, người tham gia sáng
lập Trường Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối, các tạp chí Phật giáo,
Dòng tu Tiếp Hiện, Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, cơ sở tu trì Làng
Mai… Ông là thiền sư mà cũng là giáo chủ một môn phái.
Đánh
giá thơ Nhất Hạnh là đánh giá triết thuyết của ông và đụng chạm đến
những tư cách ngoài tư cách nghệ sĩ của ông, đụng chạm đến cả những
người tán thảnh, cổ vũ hay phản đối, nghi kỵ môn phái của ông. Sự ngần
ngại, e dè càng có thêm lý do của nó.
Mặt
khác, muốn cảm và hiểu thơ Nhất Hạnh, phải đặt trong toàn bộ sáng tác và
trước tác của ông, đặc biệt là những sách bàn về Thiền học, về duy thức
học… Đó là cả một khối lượng công trình đồ sộ. Nhất Hạnh cần có một cây
bút chuyên nghiệp viết tiểu sử và khảo sát toàn bộ tác phẩm của ông, nay
đã vượt con số trăm. Những tác gia văn học có sự nghiệp lớn lao như vậy
ở nước ta rất hiếm (Tô Hoài, Nguyễn Hiến Lê…), có ảnh hưởng ở tầm mức
thế giới như ông lại càng hiếm.
Cũng
như những tác phẩm thơ ca đích thực, thơ Nhất Hạnh vừa kỵ sự lý giải
bằng những lý thuyết, lại vừa cần sự phân tích để nối dài ý nghĩa của
những văn bản đa nghĩa. Trong văn bản nghệ thuật của Nhất Hạnh có nhiều
yếu tố liên văn bản cần được soi sáng để tìm mối tương quan: với Kinh
Phật, với văn hóa dân gian, với
Truyện Kiều, cả với Kinh Thánh… Mượn cách nói của Nguyễn Ngọc Lan,
một người bạn cùng lý tưởng hòa bình thuở hàn vi của ông, thế giới nghệ
thuật của Nhất Hạnh không phải là những “pháo đài”, mà là những con
đường mở về những chân trời của văn hóa.
5.
Trong kho tàng trước tác của Nhất Hạnh, duy thức học là lãnh vực có liên
quan sâu sắc và mật thiết với sáng tác thơ ca của ông. Có thể nói Nhất
Hạnh cùng trong dòng khảo cứu duy thức học, một bộ môn độc đáo, uyên áo
và khó hiểu nhất của tư tưởng Phật học, với các Hòa thượng Trí Độ, Trí
Quang, Thiện Siêu, Thiện Hoa… Nhất Hạnh đã đưa duy thức học đến với công
chúng bằng cách diễn đạt sáng rõ và dễ tiếp thu nhất có thể, qua những
cuốn sách: Nẻo vào Thiền học,
Vấn đề nhận thức trong duy thức
học, Giảng luận duy biểu học…
Ông còn khai triển duy thức học bằng ngôn ngữ hình tượng, như khi viết
một chương trong Nẻo về của Ý,
tái hiện hình ảnh người thiền sư đứng trước khu vườn trong một đêm
sương, thấy mình nhập thân vào cỏ cây hoa lá.
Thật
thú vị, khi hơn một lần, Nhất Hạnh xác nhận sự gặp gỡ của duy thức học
Phật giáo với hiện tượng luận của Husserl. Mở đầu cuốn
Vấn đề nhận thức trong duy thức
học, tác giả viết:
“Duy thức học
(Vijnànavàda) là một cánh cửa hiện tượng luận mở nhìn vào vấn đề thực
tại tuyệt đối, tức là vấn đề chân
như (tathatà). Chữ hiện tượng luận ở đây có thể hiểu đúng theo nghĩa
mà Husserl đã dùng. Người ta thường cho
thức (Vijnàna)
là sự hiểu biết, là sự lĩnh hội, là tâm hay là ý thức. Nhưng
trong khi dùng những tiếng ấy, người ta cứ có khuynh hướng nghĩ rằng
thức là
chủ thể nhận thức,
chủ thể tư duy, là một thực
thể tâm lý tồn tại độc lập ngoài đối tượng, Tuy nhiên, theo duy thức
học, thức không phải là cái chủ
thể nhận thức hay là chủ thể
tư duy ấy. Duy thức học cho rằng một thực thể tâm lý không thể tồn tại
độc lập với đối tượng của nó được.
Thức bao hàm cả chủ thể nhận
thức lẫn đối tượng nhận thức. Quan niệm này, tuy thế, không phải là nền
tảng của một khách quan duy tâm luận. Nhận thức bao giờ cũng là nhận
thức một cái gì, vì vậy không thể có thứ “thức” thuần chủ thể. Ta phải
nhớ điều căn bản này nếu muốn đi sâu vào duy thức học”[5].
Ở
đây, có thể suy nghĩ về vấn đề này trên mấy khía cạnh:
Một,
như vậy là duy thức học gần với quan niệm về tính ý hướng của Franz
Brentano và Edmund Husserl: ý thức là ý thức về một đối tượng và đối
tượng là đối tượng cho một ý thức. Năng tri là năng tri về một sở tri,
nó ban phát ý nghĩa cho sở tri; ngược lại, sở tri là sở tri trong tương
quan với năng tri, nó mang tính ý hướng của năng tri. Đó là quan hệ giữa
Noèse và Noème (corrélation noético-noématique) theo tinh thần hiện
tượng luận. Trong viễn cảnh một triết học chủ toàn, duy thức học và hiện
tượng luận xóa nhòa ranh giới giữa chủ và khách, ngã và tha, căn và
cảnh. Trong Nẻo về của Ý,
Nhất Hạnh viết:
“Trong
lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc, cây hoa
đại
đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng
nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những
ngôi sao lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong
lòng nhận thức. Đột nhiên thời gian và khoảng cách tự tiêu diệt, tan
biến. Đột nhiên năng và sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù
em có xa cách muôn vạn do tuần
thì muôn vạn do
tuần
ấy cũng được nối liền trong một lần
hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở
về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện hữu của em tự nhiên trở
về bừng hoa nơi nhận thức tôi.
[…]
Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết tôi còn đây vì em còn
đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không thì năng duyên
và sở duyên cùng không”[6].
Hai,
hiện tượng luận kêu gọi “giản lược”, épochè, chế ngự phán đoán có sẵn,
tạm gác vấn đề, cho vào ngoặc đơn để đưa sự vật trở về với sự vật và
xuất hiện như một hiện tượng, nghĩa là cái bày ra trước ý thức và được ý
thức chứng nghiệm. Duy thức học cũng kêu gọi “phá chấp”, nghĩa là xóa bỏ
những thiên kiến và ảo tưởng, để đón nhận sự vật như nó tự biểu hiện ra.
Không phải ngẫu nhiên mà đến một tác phẩm sau, Nhất Hạnh gọi duy thức
học bằng tên mới là “duy biểu học”. Ông nhắc lại: “Chủ thể nhận thức là
năng duyên hay là năng tri hoặc là kiến phần. Năng duyên là phần chủ
thể. Cũng vậy nếu không có tướng phần của thức thì không có chủ thể của
nhận thức. Vì vậy khi hiển hiện ra thì sở duyên là điều kiện tất yếu của
thức”[7].
Ba,
những gì mà Franz Brentano, Edmund Husserl, Theodor Lipps… khám phá và
khẳng định vào cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, thì duy thức học Phật
giáo đã đề cập từ trong Kinh Hoa
Nghiêm, Kinh Pháp Hoa; từ tư tưởng của Huyền Trang,
Chân Đế… Hơn nữa, duy thức học không dừng lại ở sự kết nối giữa
năng tri và sở tri, mà quan trọng là kết nối tâm, ý và thức để phóng
chiếu lên sự vật, đồng thời với việc sự vật hồi chiếu lên tâm, ý và thức
của ta. Đó chính là sự tương tức của tâm và cảnh, nội giới và ngoại
giới, không phải như hai thực thể biệt lập mà như hai mặt của một thực
thể toàn vẹn.
Như
vậy, duy thức học/ duy biểu học Phật giáo không chỉ bao hàm nhận thức
luận triết học mà còn đặt nền tảng cho một viễn tượng lý thuyết về sáng
tạo và tiếp nhận nghệ thuật, trong đó có sáng tạo và tiếp nhận thi ca.
6.
Trong
tinh thần đó, duy thức học có thể giúp ta phần nào cảm thấy dễ hiểu hơn
một số hình tượng, cấu tứ và ngôn từ trong thơ Nhất Hạnh. Trong
Trường ca Avril, ông viết:
Em không phải là Tạo Sinh mà chỉ
là Biểu Hiện, nghĩa là em không tự mình mà có, em “chỉ là một phần
của hiện hữu vô thỉ vô chung” và em chỉ là em trong phút giây này khi
“Avril về trong rừng cây trang nghiêm”. Bài
Phổ nhập triển khai ý tưởng
về tương quan giữa “tôi” và thế giới:
Mặt trời đã đi vào trong tôi/ Mặt
trời đã đi vào với đám mây và dòng suối/ Tôi đã đi vào dòng suối/ Tôi
cũng đã rủ mặt trời cùng đi/ Chúng ta không lúc nào không tương nhập/
Trước khi mặt trời đi vào trong tôi/ Tôi đã có mặt trời/ Tôi đã có đám
mây và dòng suối/ Trước khi tôi đi vào dòng suối/ Dòng suối đã có sẵn
tôi/ Chúng ta không lúc nào không tương tức/ Bởi vậy chừng nào em còn
thở/ Thì em đừng bảo là tôi không có trong em. Bài
Vòng tay nhận thức là một
cách thi hóa chương sách trong
Nẻo về của Ý đã nói trên kia:
Tôi biết là em còn đó, vì tôi còn đây/ Vòng tay nhận thức, vô lượng do
tuần, nối liền diệt sinh năng sở/ Và tôi đã thấy/ Trong lòng đêm thâu
hay trong lòng bao la nhận thức/ Của em, cũng như của vườn hoa lá/ Tôi
đã tự bao giờ, vẫn là duyên thân sở duyên/ Diệu hữu lời ca chân không
mầu nhiệm.
Nếu
thử làm một thống kê từ vựng học, thì có lẽ trong thơ Nhất Hạnh, ngoài
những từ xưng hô, hai từ xuất hiện với tần số dày nhất là “thương yêu”
và “mầu nhiệm”. Tình thương yêu tự nó là sự mầu nhiệm. Nhưng mầu nhiệm
cũng tỏa sáng trên nhiều hiện tượng của trần gian, trong đó có sự tương
tức, phổ nhập và hóa thân. Bởi vì
trăng không có ngã/ Và bởi vì người ngắm trăng không có ngã/ Cho nên cả
trăng và người ngắm trăng đều là thực tại nhiệm mầu (Ngắm trăng).
Tôi là con phù du thoát hình trên
mặt nước/ Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du/
Tôi là con ếch bơi trong hồ thu/ Và cũng là con rắn nước trườn đi/ Tìm
cách nuôi thân bằng thân ếch nhái/ Tôi là em bé nghèo Ouganda bao xương
sườn đều lộ ra, hai bàn chân bằng hai ống sậy/ Tôi cũng là người chế tạo
bom đạn/ Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi (Hãy gọi đúng
tên tôi). Tôi hóa thân vào vạn vật và vạn vật hóa thân vào tôi, vậy tôi
là một với thế gian này, cho nên tôi chịu trách nhiệm với tất cả.
7.
Nhất
Hạnh bắt đầu làm thơ khi thi ca Việt Nam có sự chuyển biến về thi pháp
để tìm cách thay đổi hình thức của Thơ Mới đã dần cạn nguồn sinh lực.
Ông vẫn làm thơ lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ, thơ vắt dòng, nhưng tỉ lệ
thơ tự do ngày càng tăng. Ông đưa ngôn ngữ Phật học vào thơ, làm thơ văn
xuôi, thơ triết lý. Những yếu tố cách tân về thể thơ và ngôn ngữ xuất
hiện trong thơ Nhất Hạnh không muộn hơn thơ Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa… là mấy; nhưng tại sao khi nói đến sự cách
tân trong thơ ca Việt Nam hiện đại, người ta nhắc đến những nhà thơ này
hơn là Nhất Hạnh? Phải chăng vì Nhất Hạnh vẫn được xem là thiền sư hơn
là thi sĩ, thơ ông như là cái bóng của tư tưởng Thiền học và gần với đạo
đức, văn hóa hơn là nghệ thuật?
Vậy
Nhất Hạnh là thi sĩ hay thiền sư, hay thiền sư – thi sĩ? Phải chăng ông
là thiền sư hóa thân vào thi sĩ. Có lẽ thơ ông là sự hóa thân mầu nhiệm
của Thiền học vào văn chương, của lịch sử vào nghệ thuật, của văn xuôi
vào thơ ca, của biểu hiện vào thông điệp, của hiện hữu vào ngôn thuyết.
Tôi
đọc thơ Nhất Hạnh từ năm 14 tuổi. Hồi học lớp 9, tôi đã trích dẫn thơ
ông trong một bài báo Xuân in ronéo ở Trường Trung học Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi. Từ ấy đến nay tôi vẫn thuộc và yêu những câu thơ đẹp một
cách giản dị đó: Mười năm vườn
xưa xanh tốt/ hai mươi năm nắng dọi lều tranh/ mẹ tôi gọi tôi về/ bên
bếp nước rửa chân/ hơ tay trên bếp lửa hồng/ đợi cơm chiều khi màn đêm
buông xuống (Bướm bay vườn cải hoa vàng).
Tôi biết có những nhà nghèo/
nhưng trấu hồng ngún cháy ngày đêm/
trong bếp hồng âm ỉ/ tôi sẽ nhớ lời em không quấy động bếp lành/
một nắm rơm đặt vào/ đợi khói tỏa màu xanh/ em nhìn xem: chỉ một hơi thở
nhẹ của hồn tôi thôi/ cũng đủ gọi về lửa đỏ (Xóm Mới). Từ ấy đến nay
tôi vẫn tâm nguyện viết một bài trọn vẹn về thơ Nhất Hạnh, nhưng bây giờ
thì tôi biết mình không viết nổi. Sau gần nửa thế kỷ, tôi đã học được
nhiều lý thuyết văn nghệ, nhưng nếu có ai hỏi vì sao đối với tôi đó là
những câu thơ hay, thì tôi cũng đành im lặng.
HUỲNH NHƯ
PHƯƠNG
[1]
Ghi lại theo sách Nhất Hạnh (1996):
Thơ từng ôm và mặt trời
từng hạt, NXB Lá Bối, Walnut Creek, California, tr. 6.
[2]
Morgan Gibson (1996): “Lời Bụt cất lên từ vùng đất đau thương”
(Tịnh Thủy dịch), in trong Nhất Hạnh:
Sđd, tr. 323-328.
[3]
Dang Tien (2002): “Préface”, in trong Thich Nhat Hanh (2002):
En passant le pont,
La Boi Editeur, Walnut Creek, California, tr. 3-5.
[4]
Xem Chơn Không Cao Ngọc Phượng (1980):
Thử tìm Dấu chân trên cát,
NXB Lá Bối, tr. 103.
[5]
Nhất Hạnh (1969): Vấn đề
nhận thức trong duy thức học, NXB Lá Bối, Sài Gòn, tr. 10.
[6]
Nhất Hạnh (1972): Nẻo về
của Ý, NXB An Tiêm, Sài Gòn, t. 176.
[7]
Nhất Hạnh (không ghi năm xuất bản):
Giảng luận duy biểu học,
NXB Lá Bối, tr. 258.
|