Phê bình văn
học-Diện mạo của một thời
NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO
Bùi Công
Thuấn
Nhà phê bình phong
trào
là những người viết phê bình văn học xuất thân từ phong trào. Họ viết
phê bình theo phong trào. Đặc biệt, khi có một tác phẩm hay một hiện
tượng văn học gây sốc thì chính những
nhà phê bình phong trào tạo
nên sự sôi nổi, ồn ào trên văn đàn. Có lúc không tránh được sự quá đà.
Và khi ấy người ta thấy vắng bóng nhà phê bình chuyên nghiệp.
Viết về họ, tôi chỉ ghi nhận một “hiện tượng” của phê bình văn học, để
làm đầy đặn diện mạo của phê bình văn học Việt Nam một thời.
“TAY
NGANG” LÀM PHÊ
BÌNH
“Giáo sư Hồ Ngọc Đại đã đề cập vấn đề này theo hướng cần phải có đội ngũ
làm
lý luận phê bình văn học
chuyên nghiệp, chứ không thể dừng lại ở mức độ của những người làm
lý luận phê bình văn học
“tay ngang”. Theo giáo sư, để phân biệt được đâu là chuyên nghiệp, đâu
là “tay
ngang” thì phải căn cứ vào sản phẩm anh ta làm ra chứ không căn
cứ vào học hàm, học vị, tuổi tác, giới tính... Ông đưa ra một dẫn chứng
khá thú vị và thuyết phục rằng có một vị giáo sư, tiến sĩ tham gia biên
soạn sách giáo khoa có những cái “sai lè”, ông Đại gọi đó là người “tay
ngang”. Vị giáo sư nọ gặp ông Đại nói: “Sao
ông lại bảo tôi là “tay ngang”, tôi là giáo sư, tiến sĩ của một trường
đại học lớn, nhiều năm làm công tác biên soạn sách giáo khoa cho bậc học
phổ thông và đại học”. Ông Đại trả lời thẳng thắn: “Anh
là ai tôi không quan tâm, chỉ biết những cuốn sách mà anh biên soạn như
vậy đích thị là sản phẩm của những người “tay ngang”, còn những người
chuyên nghiệp không bao giờ người ta làm như thế”.[1]
Tôi gọi họ là nhà
phê bình “tay ngang”, vì từ
một duyên do nào đó, họ tạt sang viết phê bình. Công việc chính của họ
là việc khác. Họ có thể là những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, là kỹ sư,
nhà khoa học, có khi là bác sĩ…lâu lâu họ viết một bài phê bình, nhân
một hiện tượng văn học nào đó. Nhà thơ Inrasara là người chuyên nghiên
cứu văn hóa Chăm. Ông làm thơ rồi trở thành người viết phê bình. Nhà phê
bình Nguyễn Hòa là nhà báo. Trước đó ông là Đại Tá, làm việc ở Văn Nghệ
Quân đội. Nhà phê bình Đông La xuất thân là kỹ sư Hóa học.
Đông La đang làm ở một viện nghiên cứu về dược của Bộ Y tế, do tình cảm
sâu đậm với nhà thơ Chế Lan Viên, ông dấn thân vào văn chương,
làm thơ rồi viết phê bình. Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên
làm việc tại Viện Triết học. 10 năm đọc sách Triết, ông thấy “chất” của
mình hợp hơn với lý luận phê bình.
Nhà phê bình
Hoài Nam
(1975)
là một nhà báo. Anh tốt nghiệp khoa Văn học
-
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội,
về
công tác tại Ban văn nghệ Đài
truyền hình Việt Nam.
Hoài Nam
viết
điểm sách, viết chân dung,
viết về một số vấn đề, hiện tượng của đời sống văn chương đương đại. Nhà
phê bình Đoàn Minh Tâm (1982), tốt nghiệp chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn -
Khoa Sư phạm (nay là Đại học Giáo dục) - Đại học Quốc gia Hà Nội, làm
biên tập viên ở tạp chí Văn nghệ
quân đội…
Một vài người nói về công việc của mình: [2]
Nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Tôi
không viết phê bình đều đặn lắm, thường chỉ viết những gì tôi thấy cần
viết. Tại
sao ư? Có lẽ vì tôi chưa phải là
người làm phê bình chuyên nghiệp. Khi làm nghề chuyên nghiệp, người
ta sẽ viết trong sự thôi thúc nội tâm và từ đòi hỏi của đời sống văn
học, còn khi làm theo lối nghiệp dư thì sở thích sẽ chi phối cung cách
làm việc, thích thì làm, không
thích thì thôi.”;”nhìn rộng ra, thử hỏi trong đời sống văn
học nước mình tới hôm nay, có mấy ai làm phê bình văn học như một nghề
duy nhất và đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của bản thân? Hầu như ai cũng
có một nghề nghiệp làm phương tiện kiếm sống rồi mới viết phê bình. Điểm
qua các nhà phê bình văn học trong nửa thế kỷ qua sẽ thấy, nếu họ không
là giảng viên, giáo viên, thì cũng là nhà nghiên cứu hay nhà báo, biên
tập viên… Không chỉ vì “cơm áo không đùa với khách thơ”, mà còn “không
đùa với cả khách phê bình” nữa đấy. Cứ theo logic ấy và suy ngẫm, tôi
thấy mình là nhà báo làm phê bình hơn là nhà phê bình làm báo. Chí ít
thì có khi vài ba tháng, thậm chí tới cả năm, tôi không viết bài phê
bình văn học nào, nhưng báo thì vẫn viết đều đều!”[2b]
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Tôi
vẫn thường viết bài điểm sách theo yêu cầu PR của các nhà xuất bản và
các nhà làm sách tư nhân. Tôi làm việc này đều đều ngày tháng. Tôi thấy
đó là việc nên làm khi anh được yêu cầu PR nhưng chọn được cuốn sách anh
thấy nên viết, cần viết. Quyền lựa chọn là tự do ở chính mình”.
Nhà
phê bình phong trào
đa dạng về xuất thân. Năng lực và trình độ rất khác nhau. Họ viết phê
bình với động cơ và mục đích cũng rất khác nhau. Mỗi người có một phong
cách riêng để gây ấn tượng. Có người thực tâm tham gia vào thế giới văn
chương nghệ thuật. Có người được phong là Chí Phèo, vì ông ta muốn giết
Cái Tinh Thâm Thời Đại Mình là Bá
Kiến [*]. Có người giấu mục đích chính trị sau những mặt nạ.
Một vài trong số họ
nói rất to, lấn át người khác, để giành chân lý về mình. Thường thì
nhà phê bình phong trào rất
tự tin về “tài năng” của mình, tự tin về những gì mình viết, không ngại
đụng chạm và coi thường việc “ném đá” của công luận. Nhà phê bình Đông
La
tự phô trương mình như thế này:
“Tôi
đã hoàn thành 1 tập thơ, 1 tập truyện ngắn và 1 tập phê bình,
cả 3 đều khá dầy dặn, tôi sáng tác chỉ vì văn chương nên không sợ gì
hết. Còn chưa in vì chưa có tiền thôi. Mấy năm qua cho con du học Mỹ,
thua chứng khoán hơn tỷ, thua “đất” vài ba tỷ, nên cũng gặp khó khăn...Nói
thực muốn khen được
những bài tôi viết liên quan từ khoa học, triết học đến lý luận văn học
cần phải có tài đấy! Không ít người bạn tôi là PGS, TS (cụ thể là ở
trường KHXH&NV TPHCM) sau khi đọc những bài tôi viết về triết học, về
chính chuyên môn của họ, còn thú nhận rằng, không thể hiểu hết những
điều tôi viết.”[3]
Trong
Hội nghị lý luận phê bình văn
học lần II (2006), có nhà phê bình được gọi là “thùng
thuốc nổ”. Nơi
trường văn trận bút, họ bộc lộ rõ cá tính. Thái độ phê bình nhiều khi
đối nghịch nhau quyết liệt. Trong tranh luận, họ thường rời bỏ văn
chương để bắt qua những vấn đề nhân thân của ngưởi đối thoại theo kiểu “bỏ
bóng, đá người”. Họ dùng mọi thủ đoạn viết lách để giành phần thắng.
Chính lực lượng này tạo ra sự sôi nổi của văn đàn trong những cuộc “bút
chiến” (đa phần có mục đích ngoài văn chương). Một vài người trong số họ
quá đà, gây ra tình trạng “loạn chuẩn”. Nhiều người bỏ qua cả những
chuẩn mực văn hóa tối thiểu.
Tính chất “tay ngang” của nhà phê bình phong trào thể hiện
rõ trong các hội nghị. Hội nghị lý luận phê bình lần II (2006) có
hơn 200 người tham dự, với 60 tham luận. Ngoài khách mời và những
nhà phê bình lý thuyết, còn
lại, đa phần là nhà phê bình
phong trào.
Nhà phê bình Văn Giá
tổng kết buổi sáng Hội nghị
Lý luận phê bình văn học lần II (2006) như sau:
“Sau
phần Lễ bỏ qua phần Hội và tiến thẳng lên phần Chợ.”[4]
Một
Hội nghị lý luận phê bình
cấp quốc gia
mà biến thành
“chợ” thì không thể tưởng
tượng nổi! Vì sao? Vì chẳng ai chịu nghe người khác nói. Theo tường
thuật của Quỳnh Thi, có nhiều chuyện thật hài hước đã diễn ra trong hội
nghị Lý luận phê bình lần II (2006). Chẳng hạn, nhà văn
Nguyễn Văn Hạnh đọc tham luận có tiêu đề “Tự
do tư tưởng - Tự do sáng tạo và hoạt động văn học nghệ thuật”. Mới
đến nửa chừng của bản tham luận, hội nghị đã bắt đầu mất trật tự. Ai đó
nói: “Về hưu rồi ông mới bàn đến
tự do…”. PGS-TS Phạm Quang Trung đọc tham luận: “Rất
cần một hệ thống lý luận văn chương dành cho nhà văn”. Ban đầu,
người ta nói chuyện riêng, ồn ào. Nhưng khi Phạm Quang Trung nói được
nửa chừng, thì đã 6 lần bị hội trường vỗ tay kèm theo tiếng hô “Thôi!”,
“Thôi, xuống đi. Dưới này không
phải là học sinh của ông ở Ðà Lạt đâu!”[5].
Tôi nghĩ đó không phải là một hội nghị của những nhà phê bình chuyên
nghiệp. Nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi nhà phê bình phong trào là
nghiệp dư:
“Nói
cho đầy đủ, đa số người làm phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay chưa
thống nhất về quan niệm, về các tiêu chí cơ bản (dù tương đối) để định
giá tác phẩm, nên tình trạng chung là thích gì nói nấy, mạnh ai nấy nói,
mạnh ai nấy viết, viết cả điều rất kỳ quặc mà không thấy “ngượng bút”...
Nghĩa là phê bình đang trở thành “sân chơi” của quá nhiều
cây bút nghiệp dư!”[5b]
Dù là phê bình văn học, nhưng Nhà
phê bình phong trào thường quan tâm đến vấn đề thời sự ngoài văn
chương. Vì thế, họ không dùng đến lý thuyết phê bình văn học mà dùng vốn
lý luận văn học ở phổ thông. Họ lấy kinh nghiệm sống và viết, lập trường
chính trị của mình làm chuẩn mực đánh giá hiện tượng. Với họ, cái đúng
là cái hợp với Tôi. Khác với Tôi thì sai (thường không chấp nhận Cái
Khác-The Others). Tất nhiên “cái Tôi” của
nhà phê bình phong trào là
rất phức tạp (về ý thức chính trị, về mục đích viết phê bình…)
SỰ PHỨC TẠP
CỦA NHÀ PHÊ
BÌNH PHONG TRÀO
Mỗi khi có một hiện tượng văn học, thì người ta thấy xuất hiện nhiều
người viết phê bình có cái tên lạ. Và khi ấy, những
nhà phê bình lý thuyết, các
nhà phê bình chuyên nghiệp
thường “lặn” mất. Văn đàn thuộc về
nhà phê bình phong trào, họ
thả sức “múa gậy vườn hoang”.
Nhất là từ khi Internet cùng với các trang web văn chương và blog cá
nhân xuất hiện, thì phong trào phê bình trở nên sôi nổi vượt ra “ngoài
tầm kiểm soát”.
Chẳng hạn, trường
hợp
truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Truyện được in
trên báo Văn Nghệ tháng 9/2005 và được chọn là 1 trong 10 truyện ngắn
hay của báo Văn Nghệ 2005.
Khi
Cánh đồng bất tận được báo
Tuổi Trẻ giới thiệu, công luận dậy lên một cao trào phê bình, một bên là
phản đối, một bên là bênh vực tài năng. Trang Viet-studies.com của GS
Trần Hữu Dũng (USA) ghi nhận, từ tháng 12/2005 đến 30/6/2006 có 66 bài
viết của nhiều tác giả như: Hữu Thỉnh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Nguyễn
Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Minh Thái, Lê Ngọc Trà,
Nguyễn Khắc Trường, Lê Minh Khuê, Tạ Duy Anh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khắc
Phê, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Hòa, Hoàng Đình Quang, Lê Minh Quốc, Lê
Chí, Huỳnh Ngọc Trảng, Lê Vĩnh Trang, Nguyễn Trọng Tín, Ngô Khắc Tài, Vy
Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu, Lê Duy, Công Thắng, Vũ Hồng, Vưu Nghị Lực,
Nguyễn Tý, Huỳnh Kim, Trần Thanh Bình, Lê Phú Khải, Tào Văn An, …
Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy Cà Mau đã kiểm điểm Nguyễn Ngọc Tư vì:
“Cánh đồng bất tận thiếu tính tư
tưởng, giáo dục xã hội, giáo dục con người, thiếu tính văn hóa nghệ
thuật góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp mà xuyên tạc chê bai nhiều, gây
bất lợi./ Phê phán xã hội, nói cái xấu, mặt trái, hư cấu vượt quá hiện
thực, cái không tốt nhiều hơn, không định hướng cho con người đi đến
tương lai cuộc sống, hướng tới cái đẹp.”[6]
Tác giả Lê Hồng Thọ
(Tokyo) nhận xét:
“Đâu
rồi những tác phẩm văn chương hiện đại của Việt nam? Người ta thường
trách móc, tự vấn tại sao đất nước có nền văn hoá, truyền thồng lâu đời,
trải qua những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử từng làm ngạc nhiên, phấn
chấn cho hàng trăm triệu người trên trái đất và đang chuyển mình bức phá
lạc hậu, nghèo đói một cách mãnh liệt hôm nay nầy lại chỉ có “Cánh đồng
bất tận” với những người “chăn vịt chạy đồng” là hiện tượng đáng chú ý,
bàn luận sôi nổi trong đời sống văn học đến thế sao? Một xã hội sinh
động đang cọ xát kịch liệt giữa “cũ” và” mới”, giữa những bóng tối và
ánh sáng, giữa con người chật vật với “thực tế”, với “hội nhập”…phải
chăng là một “cánh đồng bất tận” bao la, là sân chơi cho những nhà văn
hiện đại, là bãi đáp cho những đàn cò trắng của văn học Việt Nam hơn là
những vũng bùn đục ngầu sa đọa kiểu phương tây mà họ đã đi trước Nguyễn
Ngọc Tư hàng thế kỷ. Thế mà “Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư lại
được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam mới là chuyện lạ đời, tiêu chí
đánh giá để trao giải thưởng của Hội nằm ở đâu, liệu điều nầy vô tình đã
hạ thấp giá trị của nền văn học hay nói khác đi văn học đương đại của
nước nhà chỉ có thế mà thôi, “Cánh đồng bất tận” là đỉnh cao nhất?Đáng
buồn thay!”[7]
Trái lại, nhiều nhà
phê bình lên tiếng bênh vực và khen ngợi
Cánh đồng bất tận.
Phạm Xuân Nguyên: “Cánh đồng bất tận:
Dữ dội và nhân tình”;
Nguyễn Thu Thủy – 'Cánh
đồng bất tận' đề cao giá trị sống con người”.
Đỗ
Hồng Ngọc: “Tiếng thở dài với Cánh
đồng bất tận”; Nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho
biết ý kiến của ông khi dư luận ồn ào:
“Đây
là một tác phẩm văn chương, chứ không phải là bút ký hay phóng sự. Tác
giả hoàn toàn có quyền hư cấu, sáng tạo nhằm chuyển tải tốt nhất thông
điệp nghệ thuật đến người đọc. Đảng và Nhà nước hoàn toàn tôn trọng
quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ. Đây chỉ là vấn đề ứng xử với một
tác phẩm văn chương. Tất nhiên, tác phẩm còn có những chỗ bất cập, non
nớt bởi nó là một truyện ngắn vạm vỡ của một tác giả còn rất trẻ, vì vậy
cũng rất cần sự chỉ bảo, góp ý chân tình, đầm ấm. Nguyễn Ngọc Tư là
người tha thiết yêu quê hương, không lý gì cô lại có ý xúc phạm đến quê
hương và những người dân xung quanh mình./ Thực ra, vì yêu mến Nguyễn
Ngọc Tư mà dư luận đã quá ồn ã
trước sự việc này. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Cà Mau chỉ mới yêu cầu chủ
tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh gặp gỡ, kiểm điểm chứ chưa có quyết
định nào gay gắt cả. Tôi đã gọi điện cho Nguyễn Ngọc Tư, cô vẫn vui vẻ
và cho biết, mọi chuyện diễn ra nhẹ nhàng chứ không có gì nặng nề như
bạn đọc lo lắng.”[8]
Trường hợp tập truyện
Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu
gây bão dữ dội trên các diễn
đàn cũng là một hiện tượng phê bình. Tuy nhiên, đàng sau những ý kiến
tranh cãi là mục đích chính trị không che dấu. GS Mai Quốc Liên, trong
một cuộc hội thảo, nói rõ, Bóng
đè được một tác giả nước ngoài “mông
má” lại, thành tác phẩm mang ẩn ý chính trị.
Tác giả Nguyễn Văn Lục trên Talawas đã nói rõ về những ẩn ý chính trị
này:
“Bóng
đè xuất
hiện, đá lăn chiêng những thần tượng dỏm, mục rữa, để cân bằng với Nhật
ký Đặng Thùy Trâm. Một bên sách hồng, một bên sách đen. Một
bên tô hồng, một bên bôi đen. Có lẽ đất nước chúng ta cần cả hai thứ đó
một lúc. Đây là hai hình ảnh khá tương phản, một nữ anh hùng và một nhà
văn rất ấn tượng…
…Một nhật ký kể lại quá khứ lý tưởng và một nhà văn
đảo xới mồ mả quá khứ lên như
lời nguyền rủa. Nó như một bức tranh hiện thực có hai mặt, một bên
nói tới lý tưởng, tới hy sinh cao cả của tuổi trẻ và một bên đặt lại tất
cả những gì đã làm nên quá khứ đó.
Hiện tượng thơ Thiền của Hoàng Quang Thuận lại bộc lộ một khía cạnh khác
của phê bình phong trào.
Ngày
8/8/2012 tại Hội trường Hội Nhà văn VN, Tạp chí
Nhà văn đã tổ chức một cuộc hội thảo khá “hoành tráng”, có nhiều
quan chức cấp cao tham dự. Nhan đề hội thảo là: “Hoàng
Quang Thuận với non thiêng Yên Tử”. Theo
Kỷ yếu Hội
thảo khoa học “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử”
-Hội
Nhà văn – Hà Nội tháng 8 năm 2012 có 22 tác giả.
Đa số tham luận là những bản tụng ca thơ Hoàng Quang Thuận. Hội thảo, có
sự hiện diện của nhiều nhà phê bình, nhà thơ, nhà văn như: Hữu Ước,
Nguyễn Thanh Sơn,
Đỗ Ngọc Yên, Phạm
Quang Trung, Trần Thị Thanh, Hà Ngọc Hòa,
Lê Thị Bích Hồng,
Ngô Hương Giang, Vũ Bình Lục, Nguyên An, Nguyễn Hòa,
Văn Chinh,
Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh,
Dương Kỳ Anh. Dương Xuân Nam, Ngô Văn Phú…
Nhà thơ Hữu Việt
(Phó Chủ tịch đoàn) đề dẫn:
“chỉ
trong vòng ba ngày đêm lưu lại ở vùng nong thiêng, anh đã viết một mạch
63 bài thơ in thành tập “Thi Vân Yên Tử”. Sau đó ba năm, Hoàng Quang
Thuận công bố tiếp “Ngọa vân Yên Tử” với 80 bài. Đến năm 2010, anh gộp
lại thành tập 143 bài lấy tên chung là “Thi Vân Yên Tử”… Qua cuộc hội
thảo hôm nay, chúng ta cũng mong muốn sẽ được lý giải phần nào hiện
tượng làm thơ với số lượng nhiều trong thời gian rất ngắn của Hoàng
Quang Thuận.”
PGS.TS Nguyễn Hữu
Sơn (Phó Viện trưởng Viện Văn học) giữ vai trò Chủ tịch Đoàn cũng là Chủ
tịch Hội đồng thẩm định tham luận, trong phần phát biểu tổng kết hội
thảo,
ông
đã nêu lên 4
nội dung chính: Thứ nhất, hội thảo thừa nhận và ghi nhận sự xuất hiện
của tập thơ “Thi vân Yên Tử”
của tác giả Hoàng Quang Thuận như
một hiện tượng văn học; Thứ hai, trong việc định giá thơ Hoàng Quang
Thuận còn những băn khoăn và cách hiểu với nhiều mức độ khác nhau; Thứ
ba, định tính về những sản phẩm thơ mang cảm quan Phật giáo và thơ viết
về vùng đất Phật Yên Tử của Hoàng Quang Thuận là cực khó và chưa dễ tìm
được sự đồng thuận; Thứ tư, vấn đề thể thơ và hình thức nghệ thuật của “Thi
vân Yên Tử” là vấn đề còn
nhiều gợi mở cho bạn đọc và giới phê bình.[10]
Khi “người làm thơ” Hoàng Quang Thuận bị phát hiện “đạo văn”, tạp chí
Nhà Văn phải kiểm điểm, người ta mới vỡ nhẽ ra nhiều điều về tham vọng
của người làm thơ muốn giật giải Nobel văn chương này. Các
nhà phê bình phong trào quen
tụng ca bị một phen bẽ bàng. Nếu người viết phê bình chỉ chú mục vào văn
bản tác phẩm (thơ Hoàng Quang Thuận) mà không quan tâm đến những yếu tố
văn hóa, xã hội và quá trình kiến tạo văn bản thì rất dễ ngộ nhận. Hoàng
Quang Thuận nói thơ của ông là do
tiền nhân giáng bút. Nhưng Luật sư Nguyễn
Minh Tâm cho biết: “Tình
cờ, khi lên Yên Tử, tôi vào quầy sách của Ban quản lý, thấy cuốn Chùa
Yên Tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và danh thắng của
tác giả Trần Trương… tôi phát hiện ra trong hầu hết các bài thơ anh
Thuận viết, đều lấy từ nội dung cuốn sách này, thậm chí có nhiều bài
thơ, câu thơ còn sao chép nguyên xi câu văn của tác giả Trần Trương.”[11].
Bài Thơ “nhập đồng” của nhà
phê bình Nguyễn Hòa là một phản biện đáng đọc.
(http://phebinhvanhoc.com.vn/tho-nhap-dong/)
Phê bình văn học khó biết bao!
HIỆU QUẢ VĂN CHƯƠNG
Phê bình phong trào
phản ánh ý kiến nhất thời của một cộng đồng người đọc (phương pháp đọc,
trình độ đọc và mục đích đọc). Nó phơi bày ra một cuộc đấu tranh tư
tưởng trên mặt trận văn nghệ. Ý kiến của công luận đôi khi có tác dụng
rất mạnh tới tình hình chính trị tư tưởng đương thời. Những bài phê bình
văn chương sex, ít nhiều có sức ngăn chặn những tác phẩm dùng sex bẩn
cho những mục đích ngoài văn chương (thí dụ
Bóng đè, Sợi xích). Năm 2015,
khi công luận lên tiếng phản đối mạnh mẽ, Cục xuất bản phải ra công văn
đình chỉ xuất bản truyện ngôn tình, đam mỹ.
Vì người ta
thấy rõ ảnh hưởng xấu của loại sách này đối với bạn đọc trẻ và sự gây
hại của nó đối với văn học Việt Nam.
Đáng kể nhất là, Nguyễn Ngọc Tư và
Cánh đồng bất tận đã được bảo
vệ khỏi những hệ lụy có thể có gây ra bởi nhận thức cũ, từ đó mở ra một
khuynh hướng dân chủ hơn, thoáng hơn trong nhìn nhận đánh giá tác phẩm
văn học. Công luận cũng đã ngăn chặn nhiều vụ đạo văn mà trường hợp
Hoàng Quang Thuận là một vụ tai tiếng còn mãi đến mai sau. Chính nhà phê
bình Nguyễn Hòa trong tham luận gửi tới Hội thảo “Hoàng
quang Thuận và non thiêng yên tử” đã lên tiếng cảnh báo về giá trị
giả “thơ” Hoàng Quang Thuận trước khi nó bị phát giác.
Cũng vậy, có nhiều
tranh cãi gay gắt về việc Hội Nhà văn trao giải thưởng cho tiểu thuyết
Hội Thề của Nguyễn Quang Thân (2010). Một bên ca ngợi Hội Thề, bên phản
biện cho rằng Hội Thề có nhiều sai lạc so với chính sử, xin đọc bài tổng
hợp của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến [12].
Trong cuộc tranh luận này, người ta thấy sự hiện diện của nhiều nhà văn,
nhà phê bình có thế giá.
Đó là nhà thơ Hữu Thỉnh (Chủ tịch Hội Nhà văn),
PGS.TS. Nguyễn Văn
Dân, PGS.TS. Phạm Quang Trung, nhà phê bình Lê Thành Nghị, Đỗ Ngọc
Thạch, Từ Quốc Hoài, Phạm Viết Đào,
Hoài Nam, Hà Văn Thùy, Trần Mạnh Hảo, Hoàng Tiến, Trần Hoài Dương…Cuộc
tranh luận không đưa đến kết quả cụ thể nào (Hội Thề vẫn được giải),
nhưng lộ ra nhiều vấn đề. Đó là, không có một tiêu chí chung để đánh giá
tác phẩm. Trái lại, những ý kiến về Hội Thề đều xuất phát từ góc nhìn cá
nhân mà đằng sau đó là “sự nhạy cảm chính trị”. Những ý kiến phản biện
đã chỉ ra những khiếm khuyết của Hội Thề so với chính sử, đó cũng là
cách nhận thức chung về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam. Nhà văn có quyền
hư cấu, có quyền làm đầy những khoảng trắng lịch sử, nhưng không được
trái với chân lý lịch sử, không được bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; bởi
lịch sử đươc viết bằng máu của dân tộc này. Cũng từ sự phản biện quyết
liệt của nhiều nhà văn, nhà phê bình, người đọc buộc phải hoài nghi về
việc trao giải của Hội Nhà Văn, và việc độc giả thờ ơ với những tác phẩm
đạt giải là có nguyên do.
Tuy nhiên, mặt trái của phê bình
phong trào là, trong khi tranh luận, có người đã quá đà “nặng lời”
với người đối thoại. Kiểu ngôn ngữ vô văn hóa này dần dần trở thành cách
nhà phê bình dung để hạ độc đối thủ. Ngày nay khi các cuộc tranh luận
tạm lắng xuống, đọc lại những lời của
nhà phê bình phong trào
choảng nhau, người đọc không
thể tưởng tượng được có lúc văn hóa tranh luận lại xuống cấp đến thế.
Trong bài: “Nhiễu
loạn sách văn chương tái bản”,[13]
nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên đặt vấn đề về trách nhiệm cho tái bản
những cuốn mà ông cho là “chứa
nội dung thiếu lành mạnh, thậm chí là độc hại”
như:
Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu;
Xin lỗi, em chỉ là con đĩ (tác giả Tào Đình Trung Quốc) do Trang Hạ
dịch; Sợi xích của Lê Kiều
Như; Trên lưng chừng nhìn xuống
đám đông của Nguyễn Vĩnh Nguyên;
Phù phiếm của Phan Việt;
Sát thủ đầu mưng mủ của Thành
Phong; Chân dài sao phải xoắn
của Huyền Lê; Thương nhau để đó
của Hamlet Trương và Iris Cao;
Đường hai ngả - Người thương thành lạ của Anh Khang...”.
Tác
giả Nguyễn Vĩnh Nguyên cho rằng đó là
một bài báo ẩu, khó chấp nhận được.và
yêu cầu “ông Đỗ Ngọc Yên cần làm
rõ luận điểm của mình để tránh sự áp đặt, vu khống, gây bất lợi về mặt
pháp lý, có thể phương hại đến hoạt động kinh doanh của công ty
đầu tư và nhà xuất bản”.
Cuối cùng, Nguyễn Vĩnh Nguyên “bày
tỏ thái độ…, nói một lần cho xong chuyện”:
“Đọc
bài viết của ông Đỗ Ngọc Yên, tôi đã nghĩ, Wikipedia nên sớm cập nhật
thêm một loại chó săn mới. Loại này vừa chỉ điểm, vừa ăn sẵn, vừa nhớ
mùi lâu, vừa hung hăng, vừa theo bầy, và dĩ nhiên, là vừa trung thành,
vừa hăng hái đến kệch cỡm – chó săn trong phê bình văn nghệ.”[14]
Tôi không nghĩ những lời lẽ như thế lại thốt ra từ miệng một “nhà văn”.
Nguyễn Vĩnh Nguyên sợ bài phê bình của Đỗ Ngọc Yên làm “phương
hại đến hoạt động kinh doanh của công ty đầu tư và xuất bản”, trong
đó có quyền lợi của anh, nên nặng lời sỉ nhục nhà phê bình. Hóa ra
Nguyễn Vĩnh Nguyên không vì văn chương, mà sợ quyền lợi của mình bị tổn
hại nên đạp vào mặt Đỗ Ngọc Yên để răn đe, mặc dù nhà phê bình này chỉ
đặt vấn đề xã hội chung đối với nhiều tác phẩm. Chẳng nhẽ nhà phê bình
không được quyền lên tiếng khi bầu khi văn hóa, văn chương bị nhiễm độc?
Và đây là lời nhà phê bình Đông La viết về ông Lê Hiếu Đằng:
“Còn nữa, Đằng cũng rất láo khi
viết về chuyện văn chương:’…các vị phê bình chỉ điểm (cách gọi mới đây
của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội đối với tên
Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc ‘bề hội đồng’ bài viết
của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm Mở Miệng)”. Nếu nghe theo thằng Nguyên
chửi ông Lưu, bênh Nhã Thuyên, ca ngợi thứ thơ “buồi, dái, lồn, cặc, đụ,
địt”, thơ ‘rác rưởi, cứt đái’, thì chắc Đằng thường ngày phải ăn cứt chứ
không ăn cơm. Bởi nếu còn biết phân biệt cứt với cơm thì không ai viết
như vậy”[15]
Dẫu thế nào cũng không thể chấp nhận được cách nói
xúc phạm như vậy từ miệng một
người viết văn, tức là người góp phần xây dựng “một
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Sự biểu hiện văn hóa
của một người là thước đo để người khác nhận biết về anh ta. Ngôn ngữ là
thành tố quan trọng bậc nhất của văn hóa, vì thế không ai có thể che dấu
nhân cách của mình khi diễn ngôn. Tuy nhiên, mỗi người có sự chọn lựa
thái độ riêng khi bày tỏ chính kiến, vì đó là quyền của cá nhân. Và đánh
giá của công luận dựa trên những chuẩn mức văn hóa dân tộc và cộng đồng
cũng là quyền của mọi người.
Ai cũng biết nhà phê bình Đông La tự nguyện làm
người lính trung thành của
Đảng. Đối với “người chiến sĩ”
ấy, kẻ “chống Đảng” là kẻ
thù, vì thế phải dùng bạo lực để trấn áp (Ngôn ngữ cũng có quyền lực).
Thực ra Đông La không chỉ “đánh” Lê Hiếu Đằng. Nhà phê bình này còn “to
tiếng” về nhiều người khác, dù họ là “cán
bộ cao cấp”. Chẳng hạn, khi “tâm
sự” với nhà thơ Inrasara (thực ra là phản biện), Đông La cho biết: “Trước
hết tôi phải thú nhận rằng đến nay tôi chưa biết Inrasara là ai?...“Chưa
biết” ở đây là chưa biết Inrasara viết gì, hay dở ra sao, tài năng văn
chương thế nào? Không phải do khinh người gì mà nếu ai quan tâm về tôi
sẽ thấy tôi viết từ khoa học, triết học, lý luận văn học, lịch sử đến
chính trị xã hội, phản biện từ
cán bộ cao cấp như Trần Độ,
Trần Xuân Bách, Trần Phương,..., đến các nhà văn hàng đầu như
Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm, v.v…thì đúng là không có thời gian để
ý đến Inrasara thật”.
Trong bài “Công kích Lữ Phương”
[16], nhân việc phản biện Lữ Phương, Đông La còn nói về những người “chống
đối” khác: “…tôi thấy các vị
…đều rất tinh khôn, là những người có tham vọng, từng hưởng bổng lộc của
chế độ, có những người còn có quyền cao chức trọng nữa…(hay chỉ đơn giản
là mắc sai lầm, bị thất sủng mới quay lại chống đối?!) Lữ Phương hãy đọc
những bài chửi nhau loạn xạ của
Hoàng Tiến và Nguyễn Thanh
Giang, Nguyễn Thanh Giang và
Hoàng Minh Chính, Dương Thu Hương và Nguyễn Thanh Giang…, xem có mùi
tiền, mùi quyền và mùi danh không?”
Trong bài Để Gió cuốn đi [17],
trao đổi với Văn Chinh về tri thức cảm tính, Đông La viết: “như
Lê Đạt, Văn Chinh, Nguyễn Huệ
Chi…thực chất mới chỉ biết ‘đánh vần’ những khái niệm khoa học chứ
hoàn toàn chưa hiểu gì về nội hàm và ngoại diện của chúng”
Tại Hội nghị lý luận phê bình văn
học lần thứ IV (Tam Đảo-2016), Đông La giữ nguyên
tư thế xung trận khi ông lên
diễn đàn. Tay ông giơ cao một cuốn sách sắp in, trình trước Hội nghị,
rằng trong đó ông nói về
Trần Độ, Huệ Chi, Trần Xuân Bách, Phạm Xuân Nguyên.
Ông cho rằng bây giờ trắng đen
loạn xạ, có cả một phong trào lật đổ thể chế, điển hình là
Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo.
Nguyên Ngọc nói sai, nói lộn ngược. Gần đây ông bênh
Bob Kerrey, nói rằng lính Mỹ bắn dân vì Việt Cộng núp trong dân, nên bộ
đội cũng có tội. Nguyên Ngọc dùng miệng lưỡi xảo quyệt liếm máu Bop.
Trần Mạnh Hảo nói Phát xít Nhật là chính nghĩa…
[18]
Dù Đông La là một
nhà phê bình chính trị nhưng
tôi đặt ông vào vị trí nhà phê
bình phong trào vì ông viết về nhiều đề tài, ông cho biết: “tôi
viết từ khoa học, triết học, lý luận văn học, lịch sử đến chính trị xã
hội”.
Ông cũng là một người xông xáo trong mọi diễn đàn, không sợ đụng chạm.
Trong đơn khiếu nại Hội Nhà văn Việt Nam về việc ông không được kết nạp
vào Hội Nhà văn năm 2015, Đông La viết:
“…việc
Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa quá bán bỏ phiếu phủ quyết đơn
xin vào Hội Nhà văn Việt Nam của tôi, không căn cứ vào tài, đức, thành
quả văn chương của tôi, chỉ dựa vào thành kiến sai trái, cảm tính chủ
quan, cảm tình cá nhân, đã vi phạm Nguyên lý Tập trung Dân chủ, là kết
quả sai trái, không công minh và công tâm.”
Trước đoạn kết luận này, Đông La đã viết:
“ông
Trung Trung Đỉnh, một đương
kim Ủy viên BCH Hội Nhà văn VN, luôn ca ngợi Nguyên Ngọc, người đang
trên tuyến đầu chống đối, còn định thành lập “Văn đàn độc lập”.
Văn Công Hùng, một Ủy viên
BCH khác của Hội Nhà Văn VN cũng ca ngợi Nguyễn Quang Lập, một nhà văn
mới bị bắt và đã nhận tội,…”
“…Hội
Nhà Văn VN cũng cần ổn định như xã hội cần ổn định vậy, vẫn cần đến thế
hệ Nhà thơ Hữu Thỉnh nắm trọng trách, có những sai trái yếu kém thì phải
sửa, nếu không Hội Nhà Văn sẽ là
mảnh đất gieo mầm và nuôi dưỡng sự phản loạn. Dương Thu Hương,
Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập,
v.v… đã là như thế. Vì sai trái, chỉ bằng chữ nghĩa, họ đã không làm
gì được, nhưng khi quyền lực rơi vào tay những người tiếp bước họ, như
những kẻ xấu hiện có trong BCH
Hội Nhà Văn VN thì sẽ rất nguy hiểm!”[19]
Hội Nhà văn đã trả lời ông rằng, lý do ông không được kết nạp năm 2015
là hồ sơ của ông nộp trễ. Không phải vì ông không đạt chuẩn về
tài, đức, thành quả văn chương.
Đúng vậy, năm 2016 Đông La đã được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam (!)
NHÀ PHÊ BÌNH, ANH LÀ AI?
Những điều được trình bày ở trên chỉ là để làm rõ một vài đặc điểm của
nhà phê bình phong trào và
khắc họa đôi nét về diện mạo của một thời. Đến nay, các diễn đàn đã lắng
xuống, có lẽ các nhà phê bình đã có thời gian “tĩnh tâm” để nhìn lại
mình. So sánh với những tranh luận của các nhà phê bình ở đầu thế kỷ XX,
các cuộc tranh luận trong những năm 1930-1945, tôi có nhiều điều ngẫm
nghĩ.
Tôi luôn tin rằng, nhà phê bình
phong trào ý thức rất rõ mình đang làm văn chương. Và biết rõ giá
trị của trang viết của mình. Dù thế nào, trang viết của nhà phê bình
cũng phải có chất “văn” (chất nhân văn, văn hóa trong tư tưởng và nghệ
thuật). Nguyễn Tuân từng đề ra yêu cầu cho mình khi viết là
Văn phải là văn. Thạch Lam
cũng khẳng định, văn chương
phải góp phần…”làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Đọc những dòng của Nguyễn Vĩnh Nguyên, Đông La,…tôi thấy lòng trĩu nặng…
Tháng 5 năm 2017
_______________________
[1]
Đại hội LLPB VH lần thứ III-Đỗ
Ngọc Yên.
http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=14327&lang=zh&site=30
[2]
Nhà phê bình có viết phê bình?
http://vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2007/09/740441/
[2b] Hồng Thanh Quang-Nhà phê
bình văn học Nguyễn Hòa: Đồng hành với nhà văn
[3] Nguyễn
Tý-Chân
dung kẻ thua thiệt-lethieunhon.com 2009 [*] Trần Mạnh Hảo-Trả lời phỏng vấn (báo Pháp
Luật Chủ Nhật số 136 ngày 06/11/2005)
“Còn việc ông nào đó
quá sức đề cao tôi mà phong tôi thành Chí Phèo trong làng văn, làng báo
thì vinh dự này tôi không dám nhận đâu…ít ra Chí Phèo đã giết
được cái TINH THÂM THỜI ĐẠI MÌNH LÀ BÁ KIẾN; sau đó anh ta mới tự sát.
Còn tôi, làm gì anh hùng tới mức ấy. Những giáo sư soạn sách giáo khoa
văn học sai mà tôi phê bình hơn trăm bài báo còn sống nhăn ra đấy, vẫn
tiếp tục làm chủ tịch các hội đồng soạn sách giáo khoa, thế thì Trần
Mạnh Hảo còn lâu mới trở thành Chí Phèo được, thưa các ông
“
[4]
Trần Ngọc Linh – VietNamNet-
http://www.thotre.com/luutru/index.php?menu=detail&mid=40&nid=1090
[5]
Quỳnh Thi-Vài
nét ở Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ II-
www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8259&rb=0106.
[5b]
tham luận tại toạ đàm Lí luận phê bình văn học hôm nay do Văn nghệ Quân
đội tổ chức-
http://vietvan.vn/vi/bvct/id625/Do-phai-la-cong-viec-cua-cac-chuyen-gia-ly-luan---phe-binh-dich-thuc/
[6]
http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20060421/nguyen-ngoc-tu-bi-kiem-diem-nghiem-khac-vi-dieu-gi/133791.html,
[7]
http://vietsciences.free.fr/nhipcaubandoc/diemsach/nhinvecanhdongbattan.htm
[8]
Chia sẻ cùng Nguyễn Ngọc Tư và Cánh đồng bất tận:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/chia-se-cung-nguyen-ngoc-tu-va-canh-dong-bat-tan-1888023.html
[9]
Nguyễn Văn Lục-Về một nhà văn bị
Bóng đè:
www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5823&rb=0102
[10] Dương
Tử Thành-Hội
thảo thơ Hoàng Quang Thuận nóng chuyện ‘tiền nhân mượn bút’.
[11]
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/tap-tho-thi-van-yen-tu-duoc-sao-chep-tu-dau-2134776.html
[12]Tranh
luận quanh tiểu thuyết Hội Thề-ngày 22/04/2011 trên báo Thanh
Niên:
http://thanhnien.vn/van-hoa/tranh-luan-quanh-tieu-thuyet-hoi-the-331549.html.
[13]
http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/van-nghe/item/23844502-nhieu-loan-sach-van-chuong-tai-ban.html.
[14]
Nguyễn Vĩnh Nguyên/Viet-studies -https://kimdunghn.wordpress.com/2014/07/26/ve-mot-loai-cho-san-trong-phe-binh-van-nghe/
[15] Đông La-Lê
Hiếu Đằng, kẻ từng theo Đảng chống Mỹ, nay mong theo Mỹ chống Đảng
- blog Đông La
[16]
Đông La-Bóng tối của ánh sáng”,
Nxb Hồng Đức, tr.254.
[17] Bóng tối của ánh sáng-đd-tr.316.
[18]
Bùi Công Thuấn-tư liệu ghi chép
Hội nghị lý luận phê bình văn học
lần thứ IV.
[19]
donglasg.blogspot.com/2014/12/on-khieu-nai-ve-viec-xet-on-xin-vao-hoi.html.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-12-17 |